Những thuyết trình về thần-nhân loại


Thuyết trình một

Tôi sẽ nói về những chân lý của tôn giáo chính thực - về những đối tượng khá xa xôi và lạ lẫm đối với ý thức con người hiện thời, đối với những lợi ích của văn minh hiện thời. Những lợi ích của văn minh hiện thời là cái mà hôm qua còn chưa có và ngày mai sẽ không còn nữa. Con người được phép yêu chuộng hơn cái là quan trọng đối với mọi thời đại.

Tôi sẽ không tranh luận với những ai đương gĩư thái độ phủ định đối với yếu tố tôn giáo, không tranh luận với các đối thủ hiện thời của tôn giáo - bởi vì thực ra họ có lý. Tôi nói những người bài bác tôn giáo ngày nay có lý, vì tình trạng hiện nay của tôn giáo khiến phải phủ định nó, vì tôn giáo trong thực tại không đáp ứng yêu cầu về cái cần phải có.

Nói một cách chung và trừu tượng, tôn giáo là mối quan hệ giữa con người và thế giới với bản nguyên tuyệt đối và tâm điểm của tất cả những gì tồn hữu. Từ đó trở nên hiển nhiên rằng nếu thừa nhận tính hữu thực của bản nguyên ấy, thì nó phải quy định tất cả các lợi ích, toàn bộ nội dung của đời sống và ý thức con người; tất cả những gì là hệ trọng trong cái mà con người nhận thức, hành xử và làm ra đều phải phụ thuộc vào nó và có quan hệ với nó. Nếu giả định có một tâm điểm tuyệt đối của cuộc sống, thì tất cả các điểm trên chu vi cuộc sống phải liên kết với tâm điểm ấy bằng những tia bằng nhau. Chỉ khi ấy mới có thể thống nhất, tính vẹn toàn và sự hoà hợp trong cuộc sống và ý thức con người, chỉ khi ấy những hành động và những đau khổ trong đời sống lớn và đời sống nhỏ của con người mới từ những hiện tượng vô đích và vô nghĩa trở thành những sự kiện có ý nghĩa và mang tính tất yếu nội tại. Tuyệt không thể hồ nghi rằng cái ý nghĩa phổ quát, ý nghĩa trung tâm ấy phải thuộc về yếu tố tôn giáo, nếu nói chung thừa nhận yếu tố ấy, và cũng tuyệt không thể hồ nghi rằng trong thực tại, đối với nhân loại văn minh hiện thời, ngay cả đối với những người thừa nhận yếu tố tôn giáo, tôn giáo không có dược cái ý nghĩa phổ quát và trung tâm ấy. Thay vì là tất cả trong tất cả, tôn giáo giờ đây ẩn náu trong một góc rất nhỏ và xa xăm của thế giới nội tâm chúng ta, nó chỉ là một trong rất nhiều mối quan tâm khác nhau xé lẻ tâm thức chúng ta.

Tôn giáo thời nay là một cái gì đó đáng thương đến thảm hại - nếu nói đúng thì tôn giáo, với tư cách một yếu tố thống ngự, một trung tâm của lực hấp dẫn tinh thần, tuyệt không có nữa, mà thay thế nó có một cái gì đó được gọi là “tính mộ đạo” - như là một não trạng, một thị hiếu cá nhân: ở người này có, ở người kia không có , chẳng khác nào có những người yêu và có những người không yêu âm nhạc.

Do thiếu vắng một tâm điểm tuyệt đối, cho nên ở chúng ta có bao nhiêu yêu cầu và lợi ích, thị hiếu và ham muốn, ý kiến và quan điểm khác nhau, thì cũng xuất hiện bấy nhiêu trung tâm tương đối, nhất thời của đời sống và ý thức.

Sẽ là dư thừa dừng lại ở tình trạng hỗn loạn và thiếu yếu tố lãnh đạo về phương diện tinh thần và đạo đức ngự trị hiện nay không chỉ trong xã hội mà còn trong tâm trí của từng con người cá thể - đó là hiện thực quá rõ đối với tất cả những ai có khi nào đó đã để tâm nhìn vào bên trong mình và xung quanh mình.

Sự thiếu yếu tố hướng đạo ấy, tình trạng hỗn loạn ấy là một thực tại hiển nhiên, không thể hồ nghi; nhưng cũng hiển nhiên và không thể hồ nghi một thực tại khác là loài người không thể dừng lại ở trạng thái hiện nay và vô luận thế nào đi nữa nó vẫn kiếm tìm một khởi nguyên nhất thống và liên kết tất cả. Quả thật, chúng ta thấy rằng cả nền văn minh phương Tây hiện đại đã bác bỏ yếu tố tôn giáo như là cái dưới hình thức hiện thời của nó đã tỏ ra hết sức chủ quan và bất lực - cả nền văn minh ấy tuy vậy vẫn cố gắng tìm ra ở bên ngoài lĩnh vực tôn giáo một vài khởi nguyên liên kết cho đời sống và ý thức của con người, cố gắng tìm ra một cái gì đó thay thế cho những thần linh đã bị hạ bệ. Mặc dù theo quan niệm thống ngự hiện thời, tất cả mọi khởi đầu và kết thúc của sự sống con người đều được quy về thực tại hiện hữu, về cái tự nhiên hiện tồn, và toàn bộ cuộc sống của chúng ta bị khép kín “trong vòng chật hẹp của những ấn tượng cõi trần”, tuy vậy ngay trong cái vòng chật hẹp ấy, nền văn minh hiện đại vẫn gắng sức tìm ra cho loài người một khởi nguyên có sức mạnh nhất thống và tổ chức.

Sự cố gắng tổ chức đời sống nhân loại bên ngoài lĩnh vực tuyệt đối của tôn giáo, tự khẳng định và tự thu xếp trong khu vực những lợi ích nhất thời, hữu hạn là đặc tính nổi bật của nền văn minh hiện đại.
Chí hướng ấy được thể hiện một cách nhất quán hơn cả, hữu thức và đầy đủ hơn cả trong hai học thuyết đương đại, trong đó một học thuyết - tôi nói đến chủ nghĩa xã hội - có quan hệ chủ yếu với những lợi ích thực tiễn của đời sống xã hội, còn học thuyết khác - tôi nói đến chủ nghĩa thực chứng - nhằm vào lĩnh vực lý thuyết của tri thức khoa học.

Cả chủ nghĩa xã hội lẫn chủ nghĩa thực chứng đều không ở trong quan hệ trực tiếp khẳng định hay là phủ định tôn giáo: chúng chỉ muốn chiếm cái chỗ trống, mà tôn giáo để lại trong đời sống và tâm thức của nhân loại văn minh hiện đại. Chính từ điểm nhìn ấy chúng ta phải đánh giá chúng.

Xin được nói trước là tôi sẽ không bài bác chủ nghĩa xã hội. Thông thường nó hay bị bài bác bởi những người sợ chân lý của nó. Nhưng chúng ta bảo trì những khởi nguyên mà đối với chúng chủ nghĩa xã hội không đáng sợ. Cho nên chúng ta có thể thoải mái nói về chân lý của chủ nghĩa xã hội. Nó trước hết được biện minh bởi lịch sử, như là một hệ quả tất yếu, như là lời nói cuối cùng của toàn bộ sự phát triển lịch sử trước đó của phương Tây.

Cuộc cách mạng Pháp, mà từ đấy đã hiện rõ tính chất cơ bản của nền văn minh phương Tây như là một nền văn minh phi tôn giáo, như là một thử nghiệm kiến thiết một toà nhà văn minh toàn cầu, tổ chức đời sống nhân loại trên những nguyên lý thuần tuý thế tục, ngoại tại - cuộc cách mạng Pháp, tôi nói, đã tuyên cáo một nguyên lý mới cho chế độ xã hội - nhữngquyền con người thay thế cho thần quyền xưa kia. Những quyền con người ấy có thể được quy về hai quyền cơ bản: tự do và bình đẳng, hai quyền này phải dàn hoà với nhau trong tình bác ái.* Cuộc cách mạng vĩ đại ấy đã tuyên bố tự do, bình đẳng và bác ái. Tuyên bố nhưng không thực hiện: ba chữ ấy vẫn chỉ là ba chữ trống rỗng. Chủ nghĩa xã hội là một nỗ lực thật sự thực hiện ba nguyên tắc ấy. Cách mạng đã ban bố quyền tự do công dân. Nhưng trong tình trạng bất bình đẳng xã hội hiện tồn, sự giải phóng khỏi một giai cấp thống trị này chỉ là sự rơi vào ách thống trị của một giai cấp khác. Quyền lực của vua chúa và giai cấp phong kiến chỉ được thay thế bằng quyền lực của tư bản và giai cấp tư sản. Chỉ một tự do còn chưa đem lại cái gì cả cho đa số dân chúng, nếu không có bình đẳng. Cách mạng đã tuyên bố cả cái sau. Nhưng trong thế giới của chúng ta được dựng xây trên cơ sở sự đấu tranh, sự cạnh tranh vô giới hạn của các cá nhân, sựbình đẳng về quyền còn chưa là cái gì cả, nếu không có sự bình đẳng về lực. Nguyên tắc bình đẳng, bình quyền hoá ra chỉ hữu hiệu đối với những ai có sức mạnh trong thời điểm lịch sử này.

Nhưng sức mạnh lịch sử di chuyển từ tay người này sang tay người khác, và nếu giai cấp tư sản, hay là giai cấp có của, đã tận dụng nguyên tắc bình đẳng một cách có lợi cho mình, bởi vì trong giờ phút lịch sử này sức mạnh thuộc về nó, thì cũng đúng như thế, giai cấp vô sản, hay là giai cấp không có của, cũng theo lẽ tự nhiên ấy ước muốn tận dụng nguyên tắc bình đẳng một cách có lợi cho mình, chỉ cần sức mạnh rơi vào tay nó.

Mọi chế độ xã hội phải dựa vào một căn cứ chính diện nào đó. Cái căn cứ ấy hoặc mang tính vô điều kiện, siêu nhiên và siêu nhân, hoặc nó thuộc về lĩnh vực có điều kiện của bản tính hiện hữu của con người. Xã hội dựa vào hoặc ý chí của Thượng Đế, hoặc ý chí của những con người, hay là ý chí của dân chúng. Không thể phản bác cái song đề ấy bằng lập luận nói rằng chế độ xã hội có thể được quy định bởi sức mạnh của quyền lực nhà nước cuả chính phủ, bởi lẽ bản thân cái quyền lực nhà nước ấy, bản thân chính phủ ấy phải dựa vào một cái gì đó: hoặc vào ý chí của Thượng Đế, hoặc vào ý chí của dân chúng.

Thành phần đầu của song đề đã bị nền văn minh phương Tây bác bỏ: cách mạng Pháp, cương quyết đoạn tuyệt với những yếu tố truyền thống, đã nhất quyết thiết lập nguyên tắc dân chủ, mà theo nó thì chế độ xã hội dựa vào ý dân. ý chí của dân, xét từ điểm nhìn ấy, không phải là cái gì khác, mà là ý chí của tập hợp những cá nhân hợp thành nhân dân. Quả là như thế, cuộc cách mạng vĩ đại đã bắt đầu từ việc tuyên bố rằng con người tự nhiên có những quyền vô điều kiện, có những quyền ấy do bản chất, do phẩm giá con người của mình; và vì tất cả mọi người đều có như nhau phẩm giá con người như là cội nguồn của mọi quyền, cho nên tất cả mọi người tất yếu bình quyền. Mỗi một cá nhân tự nó có quyền lập pháp, cho nên cuối cùng quyền lập pháp thuộc về đa số các cá nhân , hay là đa số dân chúng.

Nếu ý chí của đa số dân chúng là căn cứ, mà lại là căn cứ duy nhất của mọi quyền và mọi pháp luật, và nếu ý chí của đa số dân chúng đương nhiên coi phúc lợi của mình là mục tiêu hành động, thì cái phúc lợi ấy trở nên một quyền và một luật tối cao. Và nếu một giai cấp, hay là một thiểu số của nhân dân trong thực tế được hưởng một phúc lợi vật chất nhiều hơn đa số, thì cái đó, xét từ quan điểm ấy, là sự hà lạm bất chính.

Tình hình hiện nay là như thế. Cách mạng, khẳng định về nguyên tắc nền dân chủ, trên thực tế chỉ đẻ ra nền tài phiệt. Nhân dân tự quản chỉ de jure (trong pháp lý), còn de facto (trong thực tại) thì quyền lực tối cao thuộc về một bộ phận rất nhỏ - tầng lớp tư sản giàu có, những nhà tư bản. Do nền tài phiệt, về bản chất của mình, nói chung là khả thủ đối với mọi người, cho nên chính nó là vương quốc của thi đua và cạnh tranh tự do. Nhưng cái tự do và bình quyền ấy đối với đa số dân chúng chỉ là một khả năng trừu tượng. Sự tồn tại của sở hữu được thừa kế và sự tập trung nó vào trong tay một số ít người biến các nhà tư sản thành một giai cấp đặc quyền đặc lợi riêng biệt, còn tuyệt đại đa số nhân dân, bị tước đoạt mọi sở hữu, với tất cả sự tự do và bình quyền trừu tượng của mình trong thực tế biến thành giai cấp vô sản bị nô dịch, mà ở đấy sự bình đẳng là bình đẳng trong nghèo khổ bần cùng, còn tự do thì rất hay xuất hiện như là tư do chết đói. Nhưng sự tồn tại của giai cấp vô sản thường trực, là một nét đặc trưng của nền văn minh phương Tây hiện đại, chính trong nền văn minh ấy lại không tìm được một sự biện minh nào cho mình. Bởi vì nếu chế độ cũ dựa vào một số nguyên tắc tuyệt đối nhất định thì nền tài phiệt hiện thời để biện minh cho mình chỉ có thể viện dẫn sức mạnh của thực tại, viện dẫn những điều kiện lịch sử. Nhưng những điều kiện ấy đổi thay; chế độ nô lệ cổ xưa cũng được dựng xây trên những điều kiện lịch sử, song cái đó không ngăn cản được sự tiêu vong của nó. Còn nếu nói về công lý, thì lẽ nào không là công bằng, nếu của cải thuộc về người sản xuất ra nó, tức là những công nhân? Dĩ nhiên, tư bản, tức là kết quả của lao động trước đó, cũng cần thiết cho sự sản xuất ra của cải như là lao động trong hiện tại, nhưng chưa bao giờ có ai chứng minh được tính tất yếu của sự phân chia loại biệt giữa chúng, tức là tình trạng một số người phải chỉ là những nhà tư bản, còn những người khác thì phải chỉ là công nhân.

Như vậy, chí hướng của chủ nghĩa xã hội nhằm đạt tới sự đồng đều của phúc lợi vật chất, chuyển phúc lợi ấy từ tay một thiểu số sang tay đa số nhân dân là hoàn toàn tự nhiên và chính đáng, xét từ quan điểm của những nguyên tắc đã được cách mạng Pháp tuyên bố và đã trở thành nền móng của toàn bộ nền văn minh hiện đại.

Chủ nghĩa xã hội xuất hiện như một sức mạnh lịch sử chính đáng, và ở phương Tây tương lai gần nhất rõ ràng thuộc về nó. Nhưng nó không muốn chỉ là một sức mạnh lịch sử, chỉ được biện chính một cách có điều kiện, nó còn muốn là một sức mạnh đạo đức-tinh thần tối cao, ôm ấp tham vọng thực hiện chân lý tuyệt đối trong lĩnh vực các quan hệ xã hội. Nhưng chính ở đây chủ nghĩa xã hội tất yếu, một cách định mệnh, bước vào mâu thuẫn với chính mình và sự thất bại của nó trở nên hiển nhiên. Chủ nghĩa xã hội muốn thực hiện công lý và chân lý trong xã hội - song công lý và chân lý ấy là ở đâu? Lại ở sự đồng đều của phúc lợi vật chất. Một trong hai cái: hoặc phúc lợi vật chất là mục đích tự thân - thế thì trong trường hợp ấy, vì ước muốn phúc lợi vật chất chỉ là một thực tại tự nhiên của bản tính con người, cho nên sự khẳng định ước muốn ấy với tư cách một nguyên tắc không thể có được một ý nghĩa đạo đức-tinh thần nào. Chủ nghĩa xã hội, khi nó xuất hiện lần đầu tiên, tuyên cáo sự phục hồi các quyền của vật chất; vật chất quả là có những quyền của nó, và ý nguyện thực hiện những quyền ấy rất tự nhiên, nhưng đó chỉ là một trong nhiều ý nguyện tự nhiên của con người và tất nhiên không phải là ý nguyện cao quý nhất: ở đây rõ ràng không thể có ý nghĩa của chân lý tuyệt đối. Tuyên cáo phục hồi các quyền của vật chất, như là một nguyên tắc đạo đức, chẳng khác nào tuyên bố phục hồi các quyền của chủ nghĩa vị kỷ, như một vị sáng lập một giáo phái xã hội ở Mỹ đã làm, vị ấy đã thay mười giới luật của Moise bằng mười hai giới luật của mình, trong đó giới luật đầu tiên dạy: “hãy yêu bản thân mình” - một yêu cầu hoàn toàn chính đáng, nhưng trong mọi trường hợp đều là dư thừa. Hoặc phúc lợi vật chất tự nó không phải là mục đích của chủ nghĩa xã hội, mục đích là sự công bằng trong phân phối phúc lợi ấy.

Công bằng, theo nghĩa đạo đức, là một kiểu tự giới hạn những tham vọng của mình vì quyền lợi của những người khác; như vậy công bằng là một kiểu hy sinh, một kiểu tự phủ định nào đó, và càng tự hy sinh nhiều hơn, tự phủ định nhiều hơn thì càng cao quý hơn về phương diện đạo đức. Trong trường hợp ấy, đứng trên quan điểm đạo đức, không thể tìm ra một ý nghĩa hữu luân hữu đức nào từ phía giai cấp công nhân trong sự đòi hỏi phân phối đồng đều phúc lợi vật chất, bởi vì đối với giai cấp ấy công lý - nếu có công lý ở đây - đồng nghĩa với lợi ích của chính họ - một yêu cầu tư lợi và vì thế không thể mang một ý nghĩa đạo đức nào.

Chủ nghĩa xã hội đôi khi bày tỏ tham vọng thực hiện luân lý của đạo Kitô. Về việc này một ai đó đã nói hóm hỉnh và sắc sảo rằng giữa đạo Kitô và chủ nghĩa xã hội về mặt này chỉ có một sự khác biệt nhỏ là đạo Kitô đòi hỏi cho đi cái của mình, còn chủ nghĩa xã hội thì đòi hỏi lấy cho mình cái của người khác.

Nhưng nếu thậm chí giả định rằng sự đòi hỏi bình đẳng kinh tế từ phía giai cấp vô sản chỉ là sự đòi hỏi cái của mình, cái theo công lý thuộc về mình, thì ngay cả trong trường hợp ấy đòi hỏi ấy vẫn không thể có ý nghĩa đạo đức chính thực, bởi vì lấy lại cái của mình chỉ là quyền, chứ tuyệt không phải là công trạng. Trong những yêu sách của mình, nếu thừa nhận chúng là chính nghĩa, giai cấp công nhân đứng trên quan điểm pháp lý, chứ không phải luân lý.

Nhưng nếu chủ nghĩa xã hội, với tư cách một ý nguyện tư lợi của giai cấp vô sản, không thể có ý nghĩa đạo đức, thì điều ấy đương nhiên vẫn không cản trở nó có tính đạo đức, với tư cách một yêu cầu công lý xã hội không liên quan đến người đưa ra yêu cầu ấy. Và quả thật, vô luận thế nào đi nữa chủ nghĩa xã hội vẫn có lẽ phải, khi nó đứng dậy chống lại sự bất công xã hội hiện hữu - nhưng cội nguồn của cái bất công ấy là ở đâu? Rõ ràng ở chỗ chế độ xã hội được dựng xây trên cơ sở chủ nghĩa vị kỷ của từng cá nhân riêng rẽ, từ đó mà có sự cạnh tranh, đấu tranh, mối thù địch, với tất cả cái ác nảy sinh từ đấy.

Nếu cội nguồn của mọi sự bất công bất chính xã hội là ở chủ nghĩa vị kỷ, thì lẽ ra nghĩa xã hội phải dựa vào cái đối lập, tức là dựa vào nguyên tắc tự phủ định hay là tình yêu.

Để thực hiện lẽ phải, mỗi một cá nhân riêng lẻ hợp thành xã hội phải đặt giới hạn cho sự tự khẳng định một chiều của mình, đứng trên quan điểm tự phủ định, chối từ ý chí ngoại biệt của mình, hy sinh nó. Nhưng cho ai? Xét từ quan điểm đạo đức, phải hy sinh ý chí của mình cho ai? Phải chăng cho những cá nhân riêng lẻ khác, mà người nào trong họ cũng đứng trên lập trường vị kỷ, tự khẳng định - hay là cho tất cả họ hợp lại? Nhưng thứ nhất, hy sinh ý chí của mình, hy sinh sự tự khẳng định mình cho tất cả là một điều bất khả, bởi vì tất cả, như là tập hợp của các cá nhân riêng lẻ, không là và không thể là mục đích thật sự của hoạt động con người, cái “tất cả” ấy không hiện diện như một đối tượng hiện thực có thật, đối tượng ấy chỉ có thể là một số người, chứ không tất cả; thứ hai, một sự tự hy sinh như thế sẽ còn là sự bất công nữa cơ, bởi vì, phủ định chủ nghĩa vị kỷ ở trong ta, sẽ là bất công khẳng định nó ở những người khác, nâng đỡ chủ nghĩa vị kỷ của người khác.

Như vậy, chỉ có thể thực hiện công lý hay là nguyên lý đạo đức đối với cái mà theo ngay bản chất của mình là công lý. Giới hạn đạo đức của chủ nghĩa vị kỷ trong trường hợp này không thể là chủ nghĩa vị kỷ của những người khác, không thể là ý chí tự khẳng định của họ, mà chỉ có thể là cái mà tự nó không thể là riêng biệt và vị kỷ, cái mà tự nó, theo bản chất của nó, là công lý. Chỉ khi nào tất cả mọi người tự thực hiện công lý, tự dự phần vào nguyên lý đạo đức vô điều kiện, thì khi ấy ý chí của họ mới có thể là luật đạo đức đối với tôi. Do đó tình thương yêu và sự tự hy sinh vì những người khác chỉ hữu khả, khi mà ở trong những người ấy được hiện thực hoá một bản nguyên tuyệt đối, đứng bên trên loài người, mà trong quan hệ với bản nguyên ấy thì tất cả mọi người đều là bất công bất chính như nhau và tất cả đều phải từ bỏ sự bất công bất chính ấy.

Trong trường hợp ngược lại, nếu một bản nguyên tuyệt đối như thế không được thừa nhận, nếu tất cả những người khác chỉ là những sinh linh tương đối, đại diện cho một sức mạnh tự nhiên nhất định, thì phục tùng họ sẽ chỉ là chịu sự cưỡng ép từ phía họ. Mọi quyền lực không đại diện cho bản nguyên tuyệt đối của công lý và chân lý - mọi quyền lực như thế chỉ có thể là cưỡng ép và sự phục tùng nó chỉ có thể là miễn cưỡng*. Còn sự phục tùng tự do của từng người trong quan hệ với tất cả rõ ràng chỉ có thể có được, khi mà tất cả mọi người tuân phục một bản nguyên tinh thần tuyệt đối, mà trong quan hệ với nó tất cả họ đều bình đẳng với nhau, chẳng khác nào tất cả các đại lượng hữu hạn đều bình đẳng trong quan hệ với cái vô hạn. Về bản chất, những con người không bình đẳng với nhau, bởi vì có những sức lực khác nhau, và do có sự không bình đẳng sức lực ấy họ tất yếu phải phục tùng nhau một cách miễn cưỡng; vì thế về bản chất họ không có tự do. Cuối cùng, loài người về bản chất là xa lạ và thù địch lẫn nhau, và nhân loại tự nhiên tuyệt không phải là một thể bác ái. Nếu vì thế mà không thể thực hiện được chân lý và công lý trên “thổ nhưỡng”của những điều kiện tự nhiên hiện hữu - trong vương quốc của cái tự nhiên, thì sự thực hiện ấy là hữu khả chỉ trong vương quốc của thiên ân, tức là trên cơ sở một khởi nguyên đạo đức-tinh thần vô điều kiện , hay là thần thánh.

Như vậy, chủ nghĩa xã hội bằng yêu cầu thực hiện công lý xã hội và bằng sự bất khả thực hiện công lý ấy trên những cơ sở tự nhiên hữu hạn, một cách lôgic dẫn dắt đến sự thừa nhận một bản nguyên vô điều kiện trong cuộc sống, tức là thừa nhận tôn giáo. Trong lĩnh vực tri thức cả chủ nghĩa thực chứng cũng dẫn đến kết luận như thế.

Chống lại nền thần học truyền thống, trong thế kỷ XVIII cái gọi là phong trào khai sáng đã tuyên cáo những quyền của trí tuệ con người. Nhưng trí tuệ chỉ là phương tiện, là công cụ hay môi trường, chứ không phải là nội dung của nhận thức. Trí tuệ cung cấp một hình thức lý tưởng, còn nội dung của trí tuệ hay là của nhận thức lý trí là thực tại, mà vì cái thực tại siêu nhiên, siêu hình đã bị các nhà khai sáng duy lý bác bỏ, cho nên chỉ còn lại cái thực tại có điều kiện của những hiện tượng tự nhiên nhất định. Chân lý là cái hiện hữu, cái đang xảy ra hay thường xảy ra. Đây là nguyên tắc chung của chủ nghĩa thực chứng. Không thể không nhìn thấy ở đây một chí hướng chính đáng hiện thực hoá chân lý, thực hiện nó trong những đường biên rộng nhất của thực tại, chứng thực nó như là cái thấy được và sờ mó được; cũng đúng như thế, không thể không nhìn thấy cả ở chủ nghĩa xã hội một chí hướng chính đáng hiện thực hoá yếu tố đạo đức, đưa nó vào đời sống tới những biên thuỳ xa xôi nhất, vào lĩnh vực của những quan hệ kinh tế. Nhưng giống như trước khi công lý có thể được con người thực hiện trong lĩnh vực hạ đẳng của sự sống, nó phải tồn tại không phụ thuộc vào con người, cũng đúng như thế, chân lý trước khi trở thành thực tại cho con người, phải có tính thực tại của chính mình. Quả thật, chẳng khác nào một ý chí cá nhân của ai đó tự nó không thể là điều thiện hay công lý, mà chỉ có thể trở nên chí thiện chí công thông qua quan hệ hợp chuẩn hay là sự hoà hợp với ý chí phổ biến - phổ biến không theo nghĩa một sự tập hợp cơ học ý chí của nhiều người hay của tất cả mọi người, mà theo nghĩa một ý chí phổ biến về bản chất, tức là ý chí của Đấng-là-tất-cả, ý chí của Thượng Đế; cũng hệt như thế, một thực tại riêng biệt, một hiện tượng riêng lẻ rõ ràng tự nó, trong thể riêng rẽ của nó, không thể là chân lý, mà chỉ có thể được thừa nhận là chân lý trong quan hệ hợp chuẩn, trong mối liên quan lôgic hay hoà hợp với tất cả hay là với thực tại của tất cả - mà cái tất cả ở đây cũng lại không thể được hiểu theo nghĩa cơ học, theo nghĩa sự tập hợp tất cả các hiện tượng và sự việc, bởi vì thứ nhất, một tập hợp như thế không thể tồn tại trong ý thức của chúng ta, do số lượng những hiện tượng và sự việc là vô hạn và không thể quy về một tổng số xác định nào đó, và thứ hai, giả dụ nếu có một tổng số như thế thì tự nó vẫn không là chân lý, bởi lẽ nếu mỗi một hiện tượng không phải là chân lý thì rõ ràng từ sự tập hợp tất cả những hiện tượng không là chân lý ấy không thể có được một chân lý nào cả (giống như nhiều số không không tạo nên được một đơn vị và nhiều kẻ vô lại không hợp thành được một người công chính); do đó thực tại của tất cả, cái thực tại phổ biến và thập toàn phải là thực tại của Đấng-là-tất-cả - thực tại của Thượng Đế. Nhưng thực tại ấy tự nó chỉ có thể được lĩnh hội trực tiếp, được mặc khải trong nội tâm, có nghĩa nó là đối tượng của tâm thức tôn giáo.

Như vậy, cả chủ nghĩa xã hội lẫn chủ nghĩa thực chứng, nếu phát triển đến cùng những nguyên tắc của chúng, đều dẫn đến sự thừa nhận yếu tố tôn giáo trong đời sống và tri thức con người.

Tôn giáo là sự tái hợp con người và thế giới với bản nguyên tuyệt đối và thập toàn. Cái bản nguyên ấy, với tư cách yếu tố thập toàn và phổ biến, không loại trừ một cái gì, vì thế mà sự tái hợp với nó, tức là tôn giáo chân chính, không thể loại trừ hay trấn át hay bắt phục tùng mình một cách cưỡng bức bất cứ một phần tử nào, bất cứ một sức mạnh sống nào trong con người và trong thế giới của nó.

Sự tái hợp hay là tôn giáo chính là sự đưa tất cả các biểu hiện tự nhiên của cuộc sống con người, tất cả các yếu tố và sức mạnh cục bộ của nhân loại vào quan hệ đúng đắn với một trung tâm tuyệt đối, thông qua và trong cái trung tâm ấy mà thiết lập quan hệ hoà hợp đúng đắn giữa chúng với nhau.

Vì cái bản nguyên tuyệt đối ấy, theo bản chất của mình, không cho phép sự loại biệt và sự bạo lực, cho nên sự tái hợp những phương diện cục bộ của đời sống và những sức mạnh cá thể với bản nguyên thập toàn và với nhau phải là tự dohoàn toàn; và tất cả những yếu tố và sức mạnh ấy, mỗi cái trong khuôn khổ của mình, trong khuôn khổ của sứ mệnh và ý tưởng của mình, đều có quyền bình đẳng tồn tại và phát triển. Nhưng vì tất cả chúng liên kết với nhau hợp thành một chỉnh thể chung vô đIều kiện, mà trong quan hệ với nó chúng là những phần tử khác biệt, nhưng đều thiết yếu như nhau, cho nên chúng có tình đoàn kết, hay là bác ái đầy đủ với nhau.

Tôi đã nói rằng, theo ý nghĩa của ý tưởng tôn giáo, sự tái hợp của những sinh linh cá thể và những yếu tố và sức mạnh cục bộ với bản nguyên tuyệt đối phải mang tính tự do; cái đó có nghĩa là những sinh linh cá thể ấy và những sức mạnh cục bộ ấy phải tự mình hay là tuân theo ý chí của mình đi tới sự tái hợp và sự hoà hợp vô điều kiện, tự mình chối bỏ tính ngoại biệt của mình, chối bỏ sự tự khẳng định hay là chủ nghĩa vị kỷ của mình.

Con đường dẫn đến sự cứu rỗi, đến sự thực hiện bình đẳng, tự do và bác ái chân chính phải thông qua sự tự phủ định. Nhưng để tự phủ định, tất yếu cần có sự tự khẳng định sơ bộ: để chối từ ý chí ngoại biệt của mình, cần có trước ý chí ấy; để cho những yếu tố và sức mạnh cục bộ tái hợp tự do với bản nguyên tuyệt đối, chúng trước đó phải tách rời nó, phảikhẳng định cái của mình, hướng tới sự thống trị và ý nghĩa tuyệt đối chỉ của mình, bởi vì chỉ có kinh nghiệm thực tế, chỉ có mâu thuẫn đã trải nghiệm, chỉ có sự thất bại đã nếm trải của sự tự khẳng định ấy mới có thể dẫn dắt đến sự tự do chối bỏ nó và sự tự do và tự giác đòi hỏi tái hợp với bản nguyên tuyệt đối.

Từ đó có thể thấy được ý nghĩa vĩ đại của sự phát triển mang tính phản diện của phương Tây, sứ mệnh vĩ đại của nền văn minh phương Tây. Nền văn minh ấy là sự ly khai hoàn toàn và triệt để của tất cả các sức mạnh nhân tính tự nhiên khỏi bản nguyên thần thánh, là sự tự khẳng định một mình của chúng, là chí hướng dựng xây trên bản thân mình toà nhà của văn minh toàn thế giới. Thông qua sự không thành, sự thất bại định mệnh của chí hướng ấy mà xuất hiện sự tự phủ định, còn sự tự phủ định thì dẫn đến sự tái hợp tự do với bản nguyên thần thánh.

Bước ngoặt cơ bản, cuộc khủng hoảng vĩ đại trong ý thức con người phương Tây đã bắt đầu. Biểu hiện rõ ràng là sự phát triển và uy tín của những tư tưởng bi quan chủ nghĩa, mà theo chúng thực tại hiện hữu là ác độc, lừa dối và khổ đau, còn nguồn gốc của cái thực tại ấy và từ đó của cả sự ác độc, lừa dối và khổ đau ấy nằm trong ý chí tự khẳng định của con người, trong lòng ham sống, vì thế sự cứu rỗi không phải ở đâu khác mà ở trong chính sự phủ định ý chí ấy, trong sự tự phủ định của con người (1) .

Quan điểm bi quan chủ nghĩa ấy, bước ngoặt về phía tự phủ định ấy tạm thời mới xuất hiện trong lý thuyết, trong hệ thống triết học, nhưng có thể chắc chắn tiên đoán rằng sắp tới, chính vào lúc mà ở phương Tây cách mạng xã hội sẽ thắng lợi và khi đã thắng lợi rồi thì sẽ nghiệm chứng sự vô ích của thắng lợi ấy, sẽ nghiệm chứng sự thất bại của chính mình, sự bất khả thiết lập một chế độ xã hội đúng đắn và hài hoà trên cơ sở một kiểu sinh tồn nhất thời và có điều kiện, chính khi ấy nhân loại phương Tây bằng thực tế, bằng hiện thực lịch sử sẽ nhận ra rằng sự tự khẳng định một chiều của ý chí con người, dù nó được thể hiện thế nào đi nữa, chính là nguồn gốc của mọi độc ác và khổ đau - và khi ấy chủ nghĩa bi quan, bước ngoặt về phía tự phủ định sẽ từ lý thuyết chuyển hoá vào đời sống, và nhân loại phương Tây sẽ sẵn sàng tiếp nhận khởi nguyên tôn giáo, tiếp nhận sự mặc khải chính diện của tôn giáo chân chính.

Theo quy luật phân công lao động lịch sử, cũng một kiểu văn minh ấy, cũng những dân tộc xác định ấy không thể cùng một lúc thực hiện được hai ý tưởng hoàn vũ, không thể làm nên được hai sự nghiệp lịch sử, cho nên nếu nền văn minh phương Tây đã hoàn thành nhiệm vụ và sứ mệnh hoàn vũ của mình bằng sự thực hiện sự chuyển bước phản diện từ quá khứ tôn giáo sang tương lai tôn giáo thì nhiệm vụ khởi đầu cho chính tương lai tôn giáo ấy lại được giao phó cho một sức mạnh lịch sử khác.

Thuyết trình hai

Tôi đã nói rằng nhiệm vụ của quá trình phát triển của phương Tây, sứ mệnh của nền văn minh phương Tây là làm cái cầu nối quá độ thiết yếu cho nhân loại đi từ quá khứ tôn giáo đến tương lai tôn giáo.

Chúng ta có thể có được một vài ý niệm về tính chất chung của cái tương lai tôn giáo ấy, nếu ta xem xét, khuyết điểm của quá khứ tôn giáo, cái không phải chủ yếu của nó là ở đâu - cái không phải đã gây nên sự phủ định và sự chuyển dịch tất yếu sang các hình thái khác.

Quá khứ tôn giáo mà tôi nói đến được đại diện bởi đạo Công giáo La Mã. Mặc dù những khuyết điểm của hình thức tôn giáo đã được ý thức, nhưng chừng nào còn chưa có được một sự chuyển hoá từ nó sang một hình thức mới tốt hơn, chính thực và phổ quát hơn xưa, thì chừng ấy đạo Công giáo vẫn giữ được cả sức mạnh có điều kiện lẫn quyền năng có điều kiện của mình. Chừng nào những yếu tố kiến tạo chính diện của tương lai chưa trở thành hiện thực trong đời sống và ý thức của nhân loại văn minh thì chừng ấy cái quá khứ tích cực vẫn còn có sức nặng hơn cái hiện tại tiêu cực. Quá khứ ấy chỉ có thể được xoá bỏ và sẽ được xoá bỏ thực sự và đến cùng chỉ bằng một nhân tố sẽ đem lại cho nhân loại nhiều hơn cái cũ, chứ không phải bằng sự phủ định trống không và bất lực. Chính vì thế mà giáo hội Công giáo vẫn đứng nguyên tại chỗ và kiên trì đấu tranh chống lại sự tiến bộ trí tuệ và xã hội - sự tiến bộ ấy chỉ có thể có được sức mạnh định mệnh vô địch chống lại cái cũ, khi nó đi tới được những kết luận chính diện, khi nó thu nhận được những cơ sở, mà trên đó có thể dựng xây một thế giới mới không chỉ tự do hơn, mà còn phong phú những sức mạnh tinh thần hơn.

Nhưng ai dám nói rằng Châu Âu ngày nay phong phú những sức mạnh tinh thần hơn so với dù chỉ Châu Âu của những người công giáo và những hiệp sĩ thời trung đại?

Hiện nay ở những nước láng giềng phương Tây của chúng ta đang tiến hành một cuộc đấu tranh gọi là văn minh chống lại đạo Công giáo. Trong cuộc đấu tranh ấy, con người không có thiên vị không thể đứng về một phía nào cả.

Nếu những người bênh vực văn minh trách cứ chính đáng giáo hội Công giáo về việc nó đã dùng bạo lực để chống lại những kẻ thù của đạo Kitô, cứ như noi gương ông chủ của mình - đức tông đồ Pierre(Phêrô), người đã rút kiếm ra bảo vệ Chúa Kitô trong vườn Gethsémani;(2) nếu người ta trách cứ chính đáng đạo Công giáo về việc nó chăm chú tạo dựng những hình thức và định thức trần gian cho những đối tượng thần thánh, cứ như noi gương cũng vị tông đồ ấy, người đã ước muốn dựng lều vật chất cho Chúa Kitô, cho Moise và Elie trên núi Thabore trong lúc Chúa hoá hình,(3) thì những người bênh vực đạo Công giáo cũng có thể trách cứ chính đáng nền văn minh hiện đại về việc nó đã chối bỏ đạo Kitô và những nguyên lý tôn giáo vì lòng mong muốn phúc lợi và của cải vật chất, cứ như noi theo tấm gương tồi tệ nhất của một tông đồ đã phản bội Chúa Kitô vì ba mươi đồng bạc.(4)
Vì những lý do dễ hiểu người ta ít khi giữ được thái độ không thiên lệch đối với giáo hội Công giáo, xuất phát không chỉ từ quan điểm tin lành duy lý, mà cả từ quan điểm tôn giáo - giáo hội chính thực. Khiển trách một cách chính đáng đạo này về chí hướng “đặt lên thân thể của Chân lý Thần Thánh những binh giáp mục nát và nặng trĩu của trần gian”, người ta không muốn nhìn thấy ở tôn giáo này bản thân cái chân lý thần thánh ấy, mặc dù dưới y phục không tương xứng. Do những điều kiện lịch sử, giáo hội Công giáo luôn luôn là kẻ thù ác độc nhất của dân tộc ta và giáo hội ta, nhưng chính vì thế mà chúng ta phải công bằng đối với nó.

Hoàn toàn có thể vận vào giáo hội La Mã những lời của nhà thơ:

Nàng không quên cõi trời
Nhưng am tường mọi thứ trên mặt đất
Và bụi đất đã bám lấy nàng.

Người ta thường xem bụi đất ấy là chính bản chất, là ý tưởng của đạo Công giáo; trong khi ấy thì trong thực tế, với tư cách một ý tưởng chung của Công giáo, trước hết hiện ra trước chúng ta cái chân lý nói rằng tất cả các quyền lực và yếu tố thế tục, tất cả các sức mạnh của xã hội và của con người cá thể phải tuân phục một bản nguyên thần thánh, rằng Vương quốc của Chúa Trời, trên mặt đất này được đại diện bởi xã hội tâm linh-giáo hội, phải làm chủ vương quốc của thế gian này.

Nếu Đức Kitô đã nói: “Vương quốc của Ta không thuộc thế gian này”, thì chính bởi vì vương quốc ấy không thuộc, mà cao hơn thế gian, và thế gian phải phục tùng nó, vì cũng Đức Kitô đã nói: “Ta đã chiến thắng thế gian”.

Song bởi lẽ cả sau chiến thắng ấy vẫn còn lại tình trạng lưỡng phân giữa Chúa Trời và Chúa Đất, xã hội thế tục không hoà nhập với xã hội tâm linh, giáo hội không hoà tan vào trong mình nhà nước, cho nên câu hỏi về quan hệ đúng đắn, phải có giữa hai quyền lực vẫn được để ngỏ. Xét từ quan điểm tôn giáo chỉ có thể có một giải đáp chung cho câu hỏi ấy: nếu giáo hội quả là Vương quốc của Chúa Trời trên mặt đất, thì tất cả những sức mạnh và quyền lực khác phải phục tùng nó, phải là những công cụ của nó. Nếu giáo hội là một khởi nguyên thần thánh vô điều kiện, thì tất cả những cái còn lại phải là có điều kiện, phải là lệ thuộc và phụ trợ. Rõ ràng không thể có hai khởi nguyên độc lập như nhau, hai khởi nguyên tối cao trong đời sống con người - nó không thể cùng một lúc làm đầy tớ cho hai ông chủ. Người ta nói về sự phân chia, phân định rạch ròi lĩnh vực giáo hội và lĩnh vực dân sự. Nhưng tất cả vấn đề ở chỗ lĩnh vực dân sự, những công việc thế tục có thể là độc lập hoàn toàn hay không, chúng có thể có được hay không tính tự chủ tuyệt đối mà phải thuộc về những công việc thần thánh ? Những lợi ích dân sự ngoại tại của con người có thể được tách rời hay không khỏi những lợi ích tinh thần nội tại của nó, mà không phương hại đến sức sống của cả hai loại lợi ích ấy? Một sự tách rời những yếu tố bên ngoài và bên trong như thế chẳng phải là chính cái được gọi là sự chết và sự tan rữa? Nếu cuộc sống nhất thời của con người chỉ là phương tiện và bước quá độ sang cuộc sống vĩnh hằng, thì tất cả mọi lợi ích và mọi công việc của cuộc đời tạm thời này phải chỉ là những phương tiện và công cụ cho những lợi ích và công việc tinh thần vĩnh hằng, phải bằng cách này hay cách kia được điều kiện hoá bởi sự sống vĩnh hằng và Vương quốc của Chúa Trời, và nếu nhà nước và xã hội công nhận mình theo đạo Kitô, thì quan điểm ấy phải là bắt buộc đối với họ.

Vương quốc trần thế phải phục tùng Vương quốc của Chúa Trời, những sức mạnh thế tục của xã hội và con người phải phục tùng một sức mạnh tinh thần, nhưng sự phục tùng ấy ở đây phải được hiểu là thế nào và nó phải được thực hiện bằng cách nào, bằng những phương tiện và phương thức nào?

Rõ ràng, tính chất và phương thức của sự phục tùng ấy phải phù hợp với bản nguyên thần thánh tuyệt đối, mà vì nó cần phải có sự phục tùng. Và nếu trong đạo Kitô Chúa Trời được hiểu như là tình yêu, trí tuệ và tinh thần tự do, thì chỉ một nhận thức ấy đã loại trừ mọi sự cưỡng bức và nô dịch, mọi niềm tin mù quáng và tăm tối: sự tuân phục yếu tố thánh thần bởi những yếu tố thế tục phải là tự do và phải được đạt tới bằng sức mạnh nội tại của bản nguyên bên trên.

“Trong nhà của Cha ta nhiều chỗ trú ngụ”- Đức Kitô nói.

Trong Vương quốc của Chúa Trời cái gì cũng có chỗ của mình, tất cả đều có thể được gắn bó với nhau bằng quan hệ hài hoà nội tại, không một cái gì phải bị trấn át và huỷ tiêu. Xã hội tâm linh – giáo hội - phải đặt xã hội thế tục dưới quyền lãnh đạo của mình bằng cách nâng nó lên ngang hàng với mình, làm cho nó nhuần thấm yếu tố tinh thần, biến yếu tố thế tục thành công cụ và phương tiện trung gian của mình - thành thân thể của mình, mà sự nhất thống bên ngoài ở đây phải tự đạt được như là một kết quả tự nhiên. Còn trong đạo Công giáo thì sự thống nhất bên ngoài lại xuất hiện không phải như là kết quả, mà như là một căn cứ và đồng thời một mục đích. Nhưng để có được thể thống nhất bên ngoài như là một mục đích chỉ có một phương tiện - sức mạnh bên ngoài, và giáo hội Công giáo đã biến sức mạnh ấy thành của mình và bằng cách ấy nó tự biến nó thành một sức mạnh ngoại tại, bên cạnh những sức mạnh thế tục khác. Nhưng khẳng định mình như một sức mạnh thế tục ngoại tại, đạo Công giáo bằng cách ấy rõ ràng biện chính cho cả sự tự khẳng định của những sức mạnh ngoại tại khác mà nó muốn đặt dưới quyền lãnh đạo của mình, biến công việc ấy thành bất khả.

Với tư cách một khởi nguyên cao nhất, chung nhất, đạo Công giáo đòi hỏi sự phục tùng mình từ phía cái cục bộ và cá thể, từ phía cá nhân con người. Nhưng trở thành một sức mạnh ngoại tại, nó không còn là yếu cao nhất nữa và mất điquyền thống trị cá nhân con người (bởi lẽ mỗi một con người có sức mạnh nội tại ), thành thử sự thống trị trong thực tại hiện ra chỉ như là một sự cưỡng bức và đàn áp, gây nên sự phản kháng tất yếu và chính đáng của cá nhân, và ý nghĩa cơ bản và lẽ biện minh cho đạo thệ phản(5) chính là ở đây.

Bắt đầu từ đạo Thệ phản, nền văn minh phương Tây cho ta thấy sự từng bước giải phóng cá nhân con người, cái tôicon người khỏi mối quan hệ lịch sử dựa trên truyền thống - mối quan hệ ấy vừa liên kết lại vừa nô dịch con người trong suốt giai đoạn trung đại. ý nghĩa vĩ đại của tiến trình lịch sử bắt đầu từ cuộc cải cách tôn giáo là ở chỗ nó đã biệt lập cá nhân con người, đã để cho nó tự cai quản mình và bằng cách ấy tạo điều kiện cho nó có thể tự do và tự giác trở về với bản nguyên thần thánh, bước vào quan hệ hoàn toàn tự do và tự giác với bản nguyên ấy.

Một mối quan hệ như thế sẽ là bất khả, nếu mà bản nguyên thần thánh là một cái gì đó thuần tuý bên ngoài đối với con người, nếu mà nó không bắt rễ ở ngay trong ngã thể con người; trong trường hợp ấy con người sẽ chỉ có thể ở trong thế phục tùng miễn cưỡng định mệnh đối với bản nguyên thần thánh. Còn quan hệ tự do nội tại giữa bản nguyên thần thánh và ngã thể con người có thể có được chỉ vì bản thân ngã thể ấy có ý nghĩa vô điều kiện. Ngã thể con người có thể tự do, từ bên trong liên kết với bản nguyên thần thánh chỉ bởi vì tự nó, theo một nghĩa nhất định, có tính thần thánh hay nói đúng hơn - nó dự phần vào bản chất của Thánh Thần.

Ngã thể con người, - không phải ngã thể con người nói chung, không phải một khái niệm trừu tượng, mà là mỗi một cá nhân có thật, mỗi một con người sống - có ý nghĩa vô điều kiện, ý nghĩa thần thánh. ở điểm này, đạo Kitô với nền văn minh thế tục hiện đại gặp nhau.

Thế nhưng tính vô điều kiện, tính thần thánh ấy của ngã thể con người là ở đâu?

Tính vô điều kiện, cũng như những khái niệm tương tự: tính vô tận, tính tuyệt đối - có hai ý nghĩa: chính diện và phản diện. 

Tính vô điều kiện phản diện, không thể hồ nghi thuộc về con người, là năng lực vượt lên trên mọi nội dung hữu hạn, bị giới hạn, năng lực không dừng lại ở đó, không thoả mãn với nó, mà đòi hỏi cái lớn hơn, năng lực, như một nhà thơ nói, “tìm kiếm những niềm hoan lạc chưa được đặt tên và không có mức độ.”

Không thoả mãn với bất kỳ một nội dung hữu hạn và có điều kiện nào, con người trong thực tế tỏ ra tự do khỏi mọi sự hạn chế nội tại, chứng tỏ tính vô điều kiện phản diện của mình - một đảm bảo cho sự phát triển vô tận của nó. Nhưng sự không thoả mãn với mọi nội dung hữu hạn, với mọi thực tại cục bộ giới hạn đồng thời là sự đòi hỏi một thực tại thập toàn, đòi hỏi một nội dung viên mãn. Sở hữu được cái thực tại thập toàn ấy, sự sống viên mãn ấy tức là sở hữu được tính vô điều kiện chính diện. Không có được tính vô điều kiện chính diện ấy, hay ít nhất khả năng của nó, thì cái vô điều kiện phản diện mất đi mọi ý nghĩa hay, nói đúng hơn, chỉ mang ý nghĩa một mâu thuẫn nội tại không có lối thoát. ý thức con người hiện đại đang ở trong trạng thái mâu thuẫn như thế. 

Nền văn minh phương Tây đã giải phóng ý thức con người khỏi mọi giới hạn bên ngoài, đã thừa nhận tính vô điều kiện phản diện của ngã thể con người, tuyên bố những quyền vô điều kiện của con người. Nhưng đồng thời, bác bỏ mọi khởi nguyên vô điều kiện theo nghĩa chính diện, tức là hiện thực - cái vô điều kiện mà theo ngay bản chất của mình đã có sự tồn tại thập toàn và viên mãn - giới hạn đời sống và ý thức con người trong vòng của cái nhất thời và cái có điều kiện, nền văn minh ấy cùng một lúc khẳng định cả khát vọng vô tận cả sự bất khả thoả mãn nó.

Con người hiện đại ý thức mình có tự do nội tại, ý thức mình đứng bên trên mọi cái ngoại tại, mọi cái không phụ thuộc vào mình, khẳng định mình là trung tâm của tất cả, trong khi ấy thì trong thực tại nó chỉ là một đIểm nhỏ bé vô cùng và tồn tại trong phút giây trên chu vi của thế giới. 

ý thức con người hiện đại thừa nhận ở ngã thể con người những quyền năng thần thánh, nhưng không cho nó cả sức lực lẫn nội dung thần thánh, bởi vì con người hiện đại cả trong đời sống lẫn tri thức chỉ công nhận một thực tại hữu hạn và có điều kiện, thực tại của những sự việc và hiện tượng cục bộ, và xét từ điểm nhìn ấy thì bản thân con người cũng chỉ là một trong những hiện thực cục bộ ấy.

Như vậy, xét từ một phía, con người là sinh linh có ý nghĩa vô điều kiện, với những quyền và những yêu cầu vô điều kiện, và cũng con người ấy chỉ là một hiện tượng hữu hạn và nhất thời, là một thực tại giữa vô vàn những thực tại khác, từ mọi phía bị giới hạn bởi chúng và lệ thuộc vào chúng - mà không chỉ con người cá thể, mà cả loài người cũng là thế. Theo quan điểm vô thần, không chỉ từng con người cá thể xuất hiện và biến mất giống hệt như mọi hiện tượng và sự việc tự nhiên, mà còn cả nhân loại, xuất hiện trên trái đất này do những điều kiện tự nhiên bên ngoài, do sự thay đổi của cũng những điều kiện tự nhiên ấy cũng có thể biến mất khỏi trái đất này hay cùng với trái đất mà không để lại vết tích nào. Con người là tất cả trong ý thức về mình, trong khi ấy thì ngay sự tồn tại của nó lại là cái có điều kiện và thường xuyên đáng nghi ngờ. Giả sử mâu thuẫn ấy chỉ là thuần tuý lý thuyết, chỉ đụng chạm đến một vấn đề hay đối tượng trừu tượng nào đó, thế thì nó đã không mang tính định mệnh và bi kịch đến thế, thế thì con người có thể để yên nó ở một chỗ, thoát ly nó để đi vào cuộc sống, vào những mối quan tâm và lợi ích thiết thực của cuộc đời. Nhưng khi mâu thuẫn nằm ngay trong trung tâm của ý thức con người, khi nó đụng chạm đến chính cái tôi của con người và chi phối mọi sinh lực của nó, thì không thể đi đâu để tránh thoát khỏi nó. Phải chấp nhận một trong hai thành phần của song đề: hoặc con người quả thật có ý nghĩa vô điều kiện, có những quyền vô điều kiện mà nó tự ban cho mình trong ý thức chủ quan nội tại của mình, - trong trường hợp ấy thì nó phải có cả khả năng thực hiện cái ý nghĩa ấy, những quyền ấy; hoặc con người chỉ là một thực tại, một hiện tượng hữu hạn và có điều kiện, hôm nay đương tồn tại, nhưng ngày mai có thể không còn nữa, và mấy chục năm sau thì chắc chắn sẽ không còn, trong trường hợp ấy thì hãy để cho nó chỉ là một thực tại: thực tại tự nó không là chân lý hay cái phản chân lý, không phải là thiện và không phải là ác, nó chỉ mang tính tự nhiên, tính tất yếu. Vậy thì con người hãy đừng hướng tới cái chân và cái thiện làm gì, tất cả cái đó chỉ là những khái niệm ước lệ, thực chất là những từ trống rỗng. Nếu con người chỉ là một thực tại, nếu nó tất yếu bị giới hạn bởi cơ chế của thực tại bên ngoài, thế thì hãy để cho nó đừng tìm kiếm một cái gì to lớn hơn cái thực tại ấy, hãy để cho nó cứ ăn uống, vui chơi, còn nếu không vui, thì nó cũng có thể bằng việc làm thực tế kết liễu cái thực tế sống của mình.

Nhưng con người không muốn chỉ là một thực tại, chỉ là một hiện tượng, và sự không muốn ấy đã ám dụ rằng quả thật nó không chỉ là một thực tại, một hiện tượng, mà là một cái gì đó to lớn hơn. Bởi vì có nghĩa gì cái thực tại không muốn là thực tại, cái hiện tượng không muốn là hiện tượng? 

Cái đó, dĩ nhiên, còn chưa chứng minh một cái gì cả, ngoài cái điều là, chấp nhận thành phần thứ nhất của song đề, kiên quyết và triệt để đứng về phía thế giới quan cơ học, chúng ta không tránh được mâu thuẫn, mà chỉ làm cho nó thêm gay gắt.

Nhưng thử hỏi: cái thế giới quan cơ học ấy, mà theo nó con người chỉ là một trong những hiện tượng của thiên nhiên, chỉ là một bánh xe tí xíu trong cỗ máy thế giới, dựa trên cơ sở nào?

Để chấp nhận cái quan điểm ấy, mà nó giáng đòn chí mạng xuống mọi khát vọng cơ bản của con người và làm cho ngay cuộc sống trở nên bất khả đối với những ai thấm nhuần hoàn toàn và triệt để quan điểm ấy, - để chấp nhận nó, rõ ràng cần phải có những căn cứ rất vững chắc. Nếu quan điểm ấy mâu thuẫn với ý chí và tình cảm của con người, thì ít nhất nó cũng phải là tất yếu tuyệt đối đối với lý trí, phải có được tính chân lý lý thuyết vô điều kiện. Và nó quả thật có tham vọng là như thế. Song thật kỳ lạ cái tham vọng có tính chân lý tuyệt đối, tính chân lý vô điều kiện từ phía quan điểm chỉ thừa nhận cái có điều kiện và cái tương đối. Đây là một mâu thuẫn mới, nhưng ta cứ cho phép tồn tại cả mâu thuẫn ấy, ta cứ giả định rằng thế giới quan cơ học có thể mang tính chân lý vô điều kiện - thế thì trên căn cứ nào chúng ta sẽ phải thật sự thừa nhận nó là như thế? Như Leibnitz đã nhận xét từ lâu, học thuyết nào cũng đều đúng đắn ở cái mà nó khẳng định và sai lầm ở cái mà nó phủ định hay loại trừ. Cũng như thế, đối với thế giới quan cơ học hay là chủ nghĩa duy vật (ở đây tôi sử dụng hai thuật ngữ này một cách không phân biệt, bởi vì tôi chỉ muốn nói đến quan điểm chung,nơi chúng gặp nhau) chúng ta cũng phải thừa nhận rằng những luận điểm chung, cơ bản của chúng là hoàn toàn đúng đắn. Có thể quy tất cả mọi luận điểm về hai điều khẳng định: 1) tất cả những gì tồn hữu đều được cấu thành từ lực và vật chất; 2) tất cả những gì diễn ra đều diễn ra một cách tất yếu, hay là theo những quy luật không thể đổi thay. 

Những luận điểm ấy trong tính phổ quát của chúng không loại trừ một cái gì cả và có thể được thừa nhận ngay từ quan điểm của chủ nghĩa duy linh. Quả là chúng ta được tạo thành từ lực và vật chất, nhưng đó chỉ là những khái niệm rất chung. Chúng ta nói về những lực vật chất, nói về những lực tinh thần. Cả hai đều có thể là những sức mạnh hiện thực như nhau. Tiếp theo, cùng với chủ nghĩa duy vật thừa nhận rằng các sức mạnh không thể tồn tại độc lập, mà tất yếu thuộc về những đơn vị hay nguyên tử hữu thực xác định là chủ thể của những sức mạnh ấy, chúng ta có thể cùng với Démocrite hiểu cả chủ thể của những sức mạnh tinh thần - linh hồn con người - như một đơn vị hữu thực, như một nguyên tử (atome) hoặc đơn tử (monade) cấp cao đặc biệt, cũng như mọi nguyên tử có thuộc tính vĩnh hằng.

Nếu luận điểm chung vừa dẫn không cung cấp một căn cứ nào cho sự phủ nhận tính độc lập của những sức mạnh tinh thần, chúng cũng hữu thực như những sức mạnh vât chất, và nếu trong thực tế tất cả các bộ óc có năng lực triết luận, năng lực tư duy lôgic ưu việt trong số những người theo thế giới quan cơ học đều không phủ nhận tính hữu thực và tính độc lập của các sức mạnh tinh thần, còn sự quy những sức mạnh tinh thần ấy về sức mạnh vật chất, sự khẳng định rằng linh hồn cũng là một chất bài tiết của não, chẳng khác nào mật là chất bài tiết của gan, chỉ thuộc về những đại diện thấp kém của thế giới quan cơ học, thuộc về những nhà khoa học và triết học tồi, - nếu, tôi nói, từ điểm nhìn chung ấy không có căn cứ nào để phủ nhận sự tồn tại và tính độc lập của những sức mạnh tinh thần mà ta được biết, thì cũng hệt như thế, từ điểm nhìn ấy cũng không có một căn cứ nào để phủ nhận sự tồn tại và tính hữu thực đầy đủ của vô số những sức mạnh khác, mà chúng ta chưa biết đến, những sức mạnh bí ẩn đối với chúng ta, trong trạng thái hiện nay của ta.

Cũng đúng như thế, công nhận rằng tất cả những gì diễn ra đều diễn ra một cách tất yếu, chúng ta phải phân biệt những kiểu loại tất yếu khác nhau. Hòn đá được ném lên không trung tất yếu rơi xuống đất; quả cầu này tất yếu đụng vào quả cầu kia và làm cho nó chuyển động; cũng như thế, mặt trời bằng những tia sáng của mình tất yếu tạo nên sự sống trong cỏ cây: quá trình này là tất yếu, song những phương thức của sự tác động tất yếu ấy đã khác nhau rồi. Một biểu tượng xác định trong óc con vật tất yếu gây nên ở nó động tác này hay động tác kia; một ý tưởng cao cả, thẩm thấu tâm hồn con người, tất yếu thôi thúc anh ta làm nên những kỳ công cao cả: trong tất cả những trường hợp ấy đều hiện diện tính tất yếu, nhưng thuộc những kiểu loại khác nhau. 

Khái niệm tất yếu theo nghĩa rộng - mà không có một sở cứ nào để hiểu nó theo nghĩa hẹp - tuyệt đối không loại trừ tự do. Tự do chỉ là một trong những dạng thức của tất yếu. Khi người ta đối lập tự do với tất yếu, thì sự đối lập ấy thường thường chỉ là sự đối lập cái tất yếu bên trong với cái tất yếu bên ngoài. 

Thí dụ, là tất yếu đối với Thượng Đế yêu thương mọi sinh linh và thực hiện trong toàn bộ thế giới thụ tạo ý tưởng chân phúc; Thượng Đế không thể thù địch, trong Thượng Đế không thể có lòng căm thù: tình yêu, trí tuệ và tự do là tất yếu đối với Thượng Đế. Chúng ta phải nói rằng đối với Thượng Đế tự do là tất yếu - điều ấy chứng tỏ rằng tự do không thể là quan niệm loại trừ một cách vô điều kiện, một cách lôgic khái niệm tất yếu. 

Tất cả đều diễn ra theo những quy luật không thể đổi thay, nhưng trong những lĩnh vực khác nhau của sinh tồn phải ngự trị những quy luật khác tính (hay nói đúng hơn những ứng dụng khác nhau của một quy luật), và từ sự khác tính ấy nảy sinh tự nhiên tương quan khác nhau của những quy luật cục bộ, thành thử những quy luật cấp thấp hơn có thể xuất hiện như là những định tính phục tùng những quy luật cấp cao hơn, tương tự như nếu chúng ta giả định rằng có những sự khác biệt đặc thù giữa những sức mạnh hoàn vũ thì chúng ta cũng có quyền giả định cả những quan hệ khác nhau giữa chúng, giả định sự tồn tại của những sức mạnh cao hơn và hùng mạnh hơn, có khả năng đặt dưới quyền chỉ huy của mình những sức mạnh khác. 

Như vậy những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa duy vật rõ ràng là đúng đắn, do tính phổ biến và tính không xác định của mình chúng không loại trừ cái gì cả và để ngỏ mọi câu hỏi. Chủ nghĩa duy vật chỉ xuất hiện như là một hệ quan điểm xác định từ phía phủ định, phía loại biệt của mình, với sự khẳng định rằng không có những sức mạnh nào khác, ngoài những sức mạnh vật chất, không có vật chất nào khác, ngoài cái vật chất là đối tượng của vật lý học và hoá học thực nghiệm, không có những quy luật nào khác trong thiên nhiên, ngoài những quy luật cơ học điều khiển sự vận động của vật chất (có thể có những quy luật khác, nhưng cũng mang tính cơ giới như thế, chi phối sự liên kết các tư tưởng trong ý thức con người). Nếu trong thực chứng ta bắt gặp một cái gì đó không mang tính cơ giới (thí dụ, sự sống, sự sáng tạo) thì đó chỉ là ảo giác; trong thực chất tất cả đều là cơ chế và tất cả phải được quy về những quy luật cơ học. Nhưng sự phủ định ấy và đòi hỏi ấy dựa trên cơ sở nào? Tất nhiên không trên cơ sở khoa học, bởi vì khoa học, nghiên cứu những hiện tượng thực nghiệm và cơ chế của những quan hệ bề ngoài giữa chúng, tuyệt không đặt ra những câu hỏi vô điều kiện về bản chất của các sự vật. Không thể hồ nghi, trong mọi cái hiện hữu phải có mặt cơ giới của nó, cái mặt ấy phải được khoa học chính xác nghiên cứu, nhưng thừa nhận tính hữu thực của chỉ một mặt ấy sẽ là một sự võ đoán quá đáng. Nếu ở đâu cơ chế kết thúc ở đấy cũng kết thúc cả khoa học chính xác, thì lẽ nào từ đó phải kết luận rằng sự kết thúc của khoa học chính xác là sự kết thúc của tất cả và thậm chí của mọi tri thức? Rõ ràng đây là một bước nhảy lôgic mà chỉ một đầu óc bị ám ảnh bởi một tư tưởng đã định trước mới dám làm. Khoa học có quan hệ với những vật chất và những lực, nhưng vật chất và lực trong thực chất là cái gì - câu hỏi ấy không thuộc về nhiệm vụ của khoa học, và nếu nhà khoa học nghe thấy nhà siêu hình học nói rằng vật chất thực ra là quan niệm, còn lực thực ra là ý chí thì ông ta, với tư cách nhà khoa học, không thể nói một cái gì ủng hộ hay chống lại lời khẳng định ấy. Nhưng nếu, mà điều này là không thể hồ nghi, nguyên tắc phủ định của chủ nghĩa duy vật không phải là kết quả của khoa học chính xác (khoa học nói chung không nghiên cứu những nguyên tắc phổ quát và tuyệt đối), thì đó chỉ là một luận điểm triết học. Nhưng trong lĩnh vực triết học tư biện (mà cái này là rõ đối với mọi người ít nhiều hiểu biết lĩnh vực này) không những không có căn cứ để phủ nhận sự tồn tại của những lực tinh thần như là cái độc lập đối với những lực vật chất, mà còn có những căn cứ triết lý rắn chắc để khẳng định rằng bản thân những lực vật chất phải được quy về những lực tinh thần. Chứng minh luận điểm này sẽ là việc không đúng chỗ ở đây, nhưng vô luận thế nào đi nữa thì vẫn không thể hồ nghi rằng trong triết học có cả những học thuyết trọn vẹn, thậm chí có thể nói hơn một nửa các học thuyết triết học thừa nhận tính khả quy của những lực vật chất về lực tinh thần, do đó chủ nghĩa duy vật trong mọi trường hợp chỉ là một trong nhiều chủ kiến triết học.

Nhưng nếu chủ nghĩa duy vật với tư cách một lý thuyết chỉ là một trong nhiều chủ kiến triết học và vì thế sự thừa nhận tính chân lý vô điều kiện của chủ kiến ấy chỉ là một niềm tin võ đoán - thế thì nguyên do của sức mạnh thực tiễn không thể hồ nghi của chủ nghĩa duy vật là ở đâu? Nếu sức mạnh ấy không có căn cứ chính diện, thì nó phải có căn cứ phản diện: nó dựa vào sự bất lực của nguyên lý tinh thần đối lập với nó, giống như sức mạnh của mọi thứ sai trái là ở sự bất lực của chân lý và sức mạnh của cái ác là ở sự bất lực của cái thiện. Còn sự bất lực của chân lý thì tất nhiên không hàm chứa ở trong bản thân nó, mà ở trong chúng ta, trong sự không nhất quán, không triệt để của chúng ta: không dẫn đưa chân lý đến cùng, chúng ta giới hạn nó, mà giới tuyến của chân lý là nơi hoạt động tự do của cái sai trái. 

Vì chân lý không thể mâu thuẫn với mình, cho nên sự nhất quán, sự triệt để tất yếu đem lại toàn thắng cho nó, y như sự nhất quán, sự triệt để ấy là hiểm nguy cho cái sai trái tồn tại được chỉ bằng mâu thuẫn nội tại. 

Khởi nguyên của chân lý là xác tín nói rằng ngã thể con người không chỉ mang tính vô điều kiện phản diện (đó là một thực tại), tức là nó không chỉ không muốn và không thể thoả mãn với bất kỳ một nội dung hữu hạn có điều kiện nào, mà nó còn có thể đạt tới cả tính vô điều kiện chính diện, tức là có thể có được một nội dung thập toàn, một sự tồn tại viên mãn, và cái nội dung thập toàn ấy, sự tồn tại viên mãn ấy không phải chỉ là tưởng tượng, không phải là ảo giác chủ quan, mà là một hiện thực chân chính, đầy sức mạnh. Như vậy, ở đây niềm tin vào bản thân, niềm tin vào ngã thể con người đồng thời là niềm tin vào Thượng Đế, bởi vì thần tính thuộc về con người và thuộc về Thượng Đế, với sự khác biệt là thần tính ấy thuộc về Thượng Đế trong thực tại vĩnh hằng, còn con người thì chỉ có thể đạt được, thu nhận được nó; trong trạng thái hiện nay thì đó chỉ là khả năng, chỉ là chí hướng.

Cái tôi con người là tuyệt đối trong tiềm năng và không là cái gì cả trong thực tế. Sự ác độc và khổ đau của nhân sinh là ở trong mâu thuẫn ấy, cũng ở đấy cả sự không có tự do, tình trạng nô lệ nội tại của con người. Chỉ thoát khỏi được ách nô lệ ấy bằng sự đạt tới cái nội dung tuyệt đối, đạt tới thể viên mãn thập toàn của sinh tồn - cái mà ý chí con người muôn đời hướng tới. “Các anh em hãy nhận thức chân lý, và chân lý sẽ làm cho các anh em trở nên tự do”.(6)

Trước khi con người có thể đạt tới cái nội dung tuyệt đối ấy trong đời sống, nó phải đạt tới trong ý thức; trước khi nhận thức được nó như một hiện thực bên ngoài mình, nó phải ý thức được nó như là lý tưởng ở trong mình. Niềm tin tưởng sắt đá vào lý tưởng tức là niềm tin vào tính khả thi của nó, bởi vì một lý tưởng bất khả thi chỉ là bóng ma và sự lừa dối, và nếu không tin vào Thượng Đế là sự điên rồ, thì sẽ còn điên rồ hơn chỉ tin vào Thượng Đế một nửa.

Hình thức cổ truyền của tôn giáo xuất phát từ niềm tin vào Thượng Đế, nhưng không dẫn đưa niềm tin ấy đến cùng. Nền văn minh phi tôn giáo thời nay xuất phát từ niềm tin vào con người, nhưng cả nó cũng không nhất quán - nó cũng không dẫn đưa niềm tin ấy đến cùng; được dẫn đưa triệt để và được thực hiện đến cùng, cả hai niềm tin ấy - niềm tin vào Thượng Đế và niềm tin vào con người - gặp nhau trong một chân lý thống nhất, đầy đủ và vẹn toàn về Thần-Nhân loại. 

VLADIMIR SOLOVIEV
1878
Phạm Vĩnh Cư dịch

* Nếu thừa nhận ý nghĩa tối thượng của con người như tự nó, thừa nhận tính tự trị tự quyết ( samozakoonnost' ) của nó, thì từ đấy tất yếu phải công nhận tự do của con người, bởi lẽ không có cái gì có thể có quyền lực đối với nó, nó là cội nguồn của mọi quyền lực; và do tính người là thuộc tính như nhau ở tất cả mọi người, cho nên từ đó mà phát sinh cả nguyên tắc bình đẳng giữa người với người.

* Mà hoàn toàn không quan trọng, một con người riêng lẻ, hay đa số dân chúng, hay thậm chí đa số nhân loại đòi cho mình quyền lực như thế, bởi vì số lượng tự nó rõ ràng không giao cho ai bất kỳ một quyền hữu luân hữu đức nào, và số đông như là số đông tự nó không mang trong mình một nét ưu việt nội tại nào (còn nếu nói về sự tiện lợi, thì không thể hồ nghi, chủ nghĩa độc tài của một người tiện lợi hơn rất nhiều so với chủ nghĩa độc tài của đám đông).

CÁC BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ



TRAO ĐỔI CÙNG BẠN VỀ BÀI VIẾT
Comments
0 Comments

Không có nhận xét nào:

Lời thưa... Đóng lại Cảm ơn bạn đã đọc bài viết:
- Có ý kiến gì xin cùng nhau trao đổi.
- Viết bằng tiếng Việt có dấu để dễ đọc hơn.
- Nếu không đăng nhập blog, vui lòng ghi tên thật để tiện trao đổi.
Xin chào và chúc sức khỏe!

Google Suy nghiệm Triết học

Bài đăng mới nhất