Trí thức và nhận thức pháp quyền (Tiếp theo và hết).



IV.

Trong ba định nghĩa về quyền, chiếu theo nội dung của các qui phạm pháp luật, tức là các qui phạm qui định và giới hạn quyền tự do (trường phái quyền tự nhiên và các nhà triết học duy tâm Đức) - qui phạm giới hạn quyền lợi (Ihering), và cuối cùng là qui phạm tạo ra sự thoả hiệp giữa các đòi hỏi khác nhau (Адольф Меркель[1]), thì định nghĩa thứ ba đáng được chú ý hơn cả, nếu xét về mặt xã hội học. Trong nhà nước hiến định hiện đại, bất kì đạo luật mới được ban hành nào, đấy là nói những đạo luật có một chút giá trị nào đó, cũng đều là kết quả của sự thoả hiệp giữa các đảng phái, tức là những tổ chức biểu đạt yêu cầu của các nhóm xã hội hoặc giai cấp mà họ làm đại diện. Chính nhà nước hiện đại cũng được xây dựng trên cơ sở của thoả hiệp và hiến pháp của mỗi nhà nước cũng là sự thoả hiệp nhằm dung hoà khát vọng của những nhóm xã hội khác nhau của quốc gia. Vì vậy mà nhà nước hiện đại, nếu xét từ quan điểm kinh tế-xã hội thì thường là chế độ tư bản, nhưng cũng có thể là quí tộc, thí dụ như nước Anh trước cuộc cải cách về bầu cử được thực hiện vào năm 1832 vốn là nhà nước hiến định nhưng lại do tầng lớp quí tộc nắm quyền; còn Phổ, mặc dù đã có hiến pháp cách đây 60 năm, nước này vẫn mang bản chất quí tộc nhiều hơn là tư bản. Nhà nước hiến định cũng có thể là của nông dân hoặc công nhân, như chúng ta thấy ở New Zealandhay Na Uy. Cuối cùng, nhà nước có thể không có mầu sắc giai cấp nhất định, đấy là khi đạt được sự quân bình giữa các giai cấp, không có giai cấp nào chiếm được ưu thế. Nhưng nếu nhà nước hiến định hiện đại được xây dựng trên sự thoả hiệp ngay cả về mặt tổ chức xã hội thì nó lại càng như thế về mặt tổ chức chính trị và pháp luật. Điều đó cho phép ngay cả những người xã hội chủ nghĩa, tức là những người phủ nhận nhà nước hiến định về mặt nguyên tắc vì họ coi đấy là là nước tư bản, dễ dàng an cư lạc nghiệp và tham gia vào hoạt động lập pháp, dễ dàng sử dụng nhà nước như phương tiện của mình. Vì vậy mà Kavelin và Mikhailovski có lí khi cho rằng nhà nước hiến định ở nước Nga sẽ là quí tộc hay tư bản; nhưng họ đã sai khi rút ra kết luận rằng không thể đội trời chung với nó và không thể chấp nhận nó ngay cả như một sự thoả hiệp, trong khi những người xã hội chủ nghĩa khắp thế giới sẵn sàng thoả hiệp với nhà nước hiến định.

Nhưng quan trọng nhất là, như đã nói bên trên, Kaverin và Mikhailovski cũng như toàn thể giới trí thức theo đuôi họ đã hoàn toàn bỏ qua bản chất pháp quyền của nhà nước hiến định. Nhưng nếu chúng ta tập trung chú ý vào khía cạnh tổ chức pháp luật của nhà nước hiến định thì để làm rõ bản chất của nó chúng ta phải chú ý đến khái niệm pháp quyền dưới dạng thuần khiết của nó, nghĩa là nội dung thật sự của nó, chứ không phải rút ra từ các quan hệ kinh tế và xã hội. Lúc đó nói rằng pháp quyền phân định rõ quyền lợi hoặc tạo ra thoả hiệp là chưa đủ mà phải dứt khoát khẳng định rằng pháp quyền chỉ có khi có tự do cá nhân mà thôi. Theo ý nghĩa này thì trật tự pháp luật là hệ thống các quan hệ trong đó tất cả các thành viên của xã hội đều có quyền tự do hành động và tự quyết cao nhất. Nhưng cũng theo ý nghĩa này thì chế độ pháp quyến không được đối lập với chế độ xã hội chủ nghĩa. Ngược lại, hiểu một cách sâu sắc cả hai sẽ đưa ta đến kết luận rằng chúng liên kết mật thiết với nhau và chế độ xã hội chủ nghĩa, xét về mặt luật học, chính là chế độ pháp quyền được thực hiện một cách nhất quán hơn cả. Mặt khác, chế độ xã hội chủ nghĩa chỉ có thể trở thành hiện thực khi tất cả các cơ quan của nó đều có một định nghĩa hoàn toàn chính xác về mặt pháp lí.

Giới trí thức Nga vốn có nhận thức yếu kém về pháp quyền, cũng như các lãnh tụ của nó là Kavelin và Mikhailovski, không thể đưa ra được định nghĩa về pháp quyền – cho chế độ dân chủ, đối với Kavelin và cho chế độ xã hội chủ nghĩa, đối với Mikhailovski. Họ còn từ chối bảo vệ ngay cả trật tự pháp lí tối thiểu, Kaverin thì chống lại hiến pháp, còn Mikhailovski thì có thái độ hoài nghi đối với quyền tự do chính trị. Nói cho ngay, các sự kiện hồi cuối những năm 70 đã buộc những người dân tuý tiến bộ, trong đó có Mikhailovski, đứng lên đấu tranh cho quyền tự do chính trị. Nhưng đây là cuộc đấu tranh mà những người dân tuý buộc phải làm vì hoàn cảnh và nhu cầu lịch sử chứ không phải là do sự phát triển tư tưởng của chính họ cho nên không thể dẫn tới thành công được. Chủ nghĩa anh hùng cá nhân của các đảng viên Đảng Ý dân không thể bù đắp được những khiếm khuyết căn bản về tư tưởng không những của phong trào dân tuý mà của cả giới trí thức Nga nói chung. Giai đoạn phản động hồi nửa sau những năm 80 còn ảm đạm và tăm tối hơn vì trong khi không có bất kì căn cứ và bảo đảm pháp lí nào cho một đời sống xã hội bình thường thì trí thức nước ta thậm chí còn không nhận thức được một cách rõ ràng vực thẳm của sự vô quyền của nhân dân Nga nữa. Không hề có một định thức lí thuyết nào đủ sức xác định được sư vô quyền đó.

Chỉ sau khi có một làn sóng hướng về phương Tây cùng với chủ nghĩa Marx nổi lên vào đầu những năm 90 thì nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga mới bắt đầu mở mang thêm được một chút. Giới trí thức Nga bắt đầu tiếp thu những chân lí sơ đẳng của người châu Âu, và lúc đó các chân lí sơ đẳng này đã có tác động với họ chẳng khác gì những mặc khải vĩ đại nhất. Cuối cùng, giới trí thức nước ta đã nhận ra rằng mọi cuộc đấu tranh xã hội đều là đấu tranh chính trị cả, rằng tự do chính trị là tiền đề cho chế độ xã hội chủ nghĩa, rằng nhà nước hiến định, dù nằm dưới sự cai trị của giai cấp tư sản đi nữa, sẽ cung cấp cho giai cấp công nhân không gian rộng lớn hơn cho cuộc đấu tranh vì quyền lợi của mình, rằng giai cấp công nhân cần trước hết là quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do ngôn luận, tự do đình công, tự do hội họp và lập hội, rằng cuộc đấu tranh vì quyền tự do chính trị là nhiệm vụ đầu tiên và thiết yếu nhất của bất kì đảng xã hội chủ nghĩa nào..v.v.. và ..v..v.. Có thể hi vọng rằng cuối cùng thì giới trí thức của chúng ta cũng công nhận những giá trị bất biến của cá nhân và đòi phải thực hiện các quyền và quyền bất khả xâm phạm của cá nhân. Nhưng hoá ra là những khiếm khuyết trong nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta là rất khó khắc phục. Mặc dù đã trải qua trường mác-xít nhưng thái độ của nó đối với pháp quyền vẫn y như cũ. Có thể nhận thấy điều đó qua những tư tưởng đang giữ thế thượng phong trong đảng dân chủ-xã hội mà cách đây chưa lâu đa số trí thức đã hùa theo. Về mặt này thì các biên bản của cái gọi là đại hội II Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga họp tại Bruxelles vào tháng 8 năm 1906 để soạn ra cương lĩnh và nội qui của Đảng là những tài liệu rất đáng được quan tâm. Đại hội lần thứ nhất tại Minsk vào năm 1898 không để lại biên bản nào; tuyên ngôn được công bố sau đó cũng không được Đại hội thông qua mà do P. B. Struve[2] soạn theo đề nghị của một uỷ viên Ban chấp hành Trung ương. Như vậy là Toàn tập biên bản Đại hội II Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga xuất bản ở Geneva vào năm 1903 là di sản đầu tiên, nếu tính về thời gian và vì vậy mà đặc biệt đáng chú ý, về tư duy của một bộ phận giới trí thức Nga, những người đã tự động đứng vào hàng ngũ của Đảng dân chủ-xã hội, về vấn đề pháp quyền và dân chủ. Việc các biên bản này thể hiện ý kiến của giới trí thức chứ không phải là của các đảng viên “đảng công nhân” theo đúng nghĩa của từ này đã được một người tham gia đại hội và là một trong các lãnh tụ tinh thần của phong trào dân chủ-xã hội Nga thời đó, tức là ông Starover[3] (A. H. Potresov) viết trong bài báo “Bàn về chủ nghĩa Marx trong các nhóm và về phong trào dân chủ-xã hội của giới trí thức[4]”.

Ở đây, chúng ta không thể ghi nhận hết các trường hợp thảo luận, khi mà sự thiếu vắng ý thức pháp quyền và sự thiếu hiểu biết ý nghĩa của sự thật pháp lí của một số đại biểu đã làm người ta phải kinh hoàng. Chỉ cần nói rằng ngay cả các lãnh tụ tinh thần và lãnh đạo đảng củng thường bảo vệ những quan điểm trái trược với các nguyên tắc pháp quyền. Thí dụ như ông G. V. Plekhanov[5], người đã có đóng góp nhiều nhất trong việc tố cáo các ảo tưởng dân tuý của giới trí thức Nga, người có công soạn thảo ra các nguyên tắc dân chủ-xã hội trong suốt hai mươi năm qua và được công nhận một cách xứng đáng là lí thuyết gia nổi tiếng của Đảng, đã phát biểu trước Đại hội về tính tương đối của tất cả các nguyên tắc dân chủ, tức đồng nghĩa với việc phủ nhận trật tự pháp luật ổn định và bền vững và phủ nhận ngay chính chế độ lập hiến. Theo ông thì “từng nguyên tắc dân chủ phải được xem xét không phải theo lối trừu tượng mà phải xem xét trong quan hệ với nguyên tắc có thể gọi là nguyên tắc căn bản của dân chủ, mà cụ thể là nguyên tắc nói rằng salus populi suprema lex[6]. Dịch sang ngôn ngữ của nhà cách mạng, câu đó có nghĩa là: thắng lợi của cách mạng là trên hết. Và sẽ là có tội nếu không tạm thời giới hạn hiệu lực của một nguyên tắc dân chủ nào đó nếu việc giới hạn đó có ích cho sự nghiệp của cách mạng. Xin nói ý kiến cá nhân tôi rằng ngay cả nguyên tắc phổ thông đầu phiếu cũng phải được xem xét từ nguyên tắc dân chủ căn bản mà tôi vừa nói bên trên. Có thể giả định trường hợp, khi chúng ta, những người dân chủ-xã hội đưa ra ý kiến phản đối quyền phổ thông đầu phiếu.

Giai cấp tư sản Ý đã từng tuớc bỏ quyền chính trị của những người thuộc giới quí tộc. Gai cấp vô sản cách mạng cũng có thể giới hạn quyền chính trị của các đẳng cấp trên tương tự như các đẳng cấp bên trên đã từng hạn chế quyền chính trị của vô sản vậy. Lợi ích của biện pháp trên chỉ có thể được xem xét từ nguyên tắc salus revolutiae suprema lex[7]. Chúng ta phải đứng trên quan điểm này ngay cả khi nói về vấn đề thời hạn của quốc hội. Nếu nhân dân, trong cao trào cách mạng, bầu được một quốc hội tốt – theo kiểu chambre introuvable[8] - thì chúng ta cần phải làm cho nó sống lâu, còn nếu các cuộc bầu cử tỏ ra là không thành công thì chúng ta phải tìm cách giải tán, không phải sau hai năm mà nếu có thể thì sau hai tuần[9]”.

Tư tưởng về thế thượng phong của bạo lực và quyền lực cướp đoạt được chứ không phải tư tưởng về sự thượng tôn của nguyên tắc pháp quyền được tuyên xưng trong bài phát biểu này quả là một tư tưởng cực kì quái đản. Ngay cả một số đại biểu Đại hội, những người đã quen khuất phục những lực lượng xã hội, cũng tỏ ra bất mãn với cách đặt vấn đề như thế. Một số người chứng kiến kể lại rằng sau bài phát biểu, một số người thuộc phái Bund[10], tức là những đại diện cho các thành phần xã hội thân phương Tây hơn, đã hô lớn: “Đồng chí Plekhanov có tước quyền tự do ngôn luận và quyền bất khả xâm phạm của tư sản không?”. Nhưng đây không phải là những lời phát biểu chính thức nên không được ghi vào biên bản. Tuy nhiên cần ghi nhận rằng một vài diễn giả, những người thuộc phái thiểu số, sau đó đã tuyên bố phản đối bài phát biểu của Plekhanov. Ông Egorov, một đại biểu của Đại hội, đã nhận xét rằng “qui luật của chiến tranh là một chuyện, còn qui luật của hiến pháp lại là chuyện khác, đồng chí Plekhanov quên là những người dân chủ xã hội thiết lập cương lĩnh của mình trên cơ sở của hiến pháp”. Ông Goldblat, một đại biểu khác, thì cho rằng bài phát biểu của Plekhanov là “sự thất bại của chiến thuật tư sản. Nếu là người nhất quán, theo Plekhanov, ta phải loại bỏ đòi hỏi quyền phổ thông đầu phiếu ra khỏi cương lĩnh của phong trào dân chủ-xã hội”.

Dù sao mặc lòng, bài phát biểu nói trên của Plekhanov, không nghi ngờ gì nữa, là chỉ dấu chứng tỏ không chỉ mức độ nhận thức pháp quyền cực kì thấp của giới trí thức của chúng ta mà còn cho thấy xu hướng muốn xuyên tạc nó nữa. Ngay cả các lãnh tụ lỗi lạc nhất của nó cũng sẵn sàng nhân danh những lợi ích ngắn hạn mà từ bỏ những nguyên tắc hiển nhiên của chế độ pháp quyền. Dễ hiểu là với nhận thức pháp quyền như thế, giới trí thức Nga trong giai đoạn đấu tranh giải phóng trên thực tế đã không thể thực hiện được ngay cả những quyền sơ đẳng nhất của con người, đấy là tự do ngôn luận và tự do hội họp. Trong các cuộc mít tinh của chúng ta, chỉ những diễn giả được lòng đám đông mới có quyền tự do ngôn luận, những người có tư duy khác biệt với đám đông thường bị bịt miệng bởi những tiếng hò hét, huýt sáo, tiếng kêu “đủ rồi”, thậm chí đôi khi còn bị tác động vào thân thể nữa. Việc tổ chức các cuộc mít tinh đã trở thành đặc quyền của một vài nhóm người và vì vậy mà đa số các cuộc mít tinh đã mất một phần ý nghĩa và cuối cùng thì chẳng còn ai coi trọng nữa. Rõ ràng là, từ đặc quyền tổ chức mít tinh và quyền tự do ngôn luận của một số ít người trong những cuộc mít tinh như thế không thể nào hình thành được tự do ngôn luận thật sự trong việc thảo luận những vấn đề chính trị; từ đó chỉ có thể hình thành một kiểu đặc quyền khác, tức là đặc quyền của các nhóm đối lập trong việc xin phép tổ chức mít tinh mà thôi.

Nhận thức què quặt về pháp quyền cũng là nguyên nhân dẫn đến kết quả yếu kém đáng kinh ngạc về mặt lập pháp trong những năm cách mạng. Trong những năm đó, giới trí thức Nga đã thể hiện sự mù tịt về quá trình lập pháp; họ không biết ngay cả chân lí cơ bản là không thể bãi bỏ một cách đơn giản pháp luật cũ được vì việc bãi bỏ chỉ có hiệu quả khi nó được thay bằng pháp luật mới. Ngược lại, việc bãi bỏ một cách đơn giản chi có thể dẫn tới sự kiện là tạm thời dường như nó không có hiệu lực nhưng sau đó nó sẽ được phục hồi hoàn toàn. Điều này thể hiện rõ ở việc thực hiện một cách tuỳ tiện quyền tự do hội họp. Giới trí thức của chúng ta hoá ra đã không có khả năng thiết lập ngay lập tức khuôn khổ pháp lí cho quyền tự do này. Thậm chí, như những cuộc tranh luận tại Duma quốc gia thứ nhất về “dự luật” về tự do hội họp, người ta còn định nâng sự thiếu vắng bất kì hình thức pháp lí nào về tự do hội họp thành luật nữa. Nhân những vụ tranh luận này, một đại biểu Duma cũng là một luật sư nổi tiếng đã có nhận xét hoàn toàn đúng rằng “việc tuyên bố một cách trụi lủi quyền tự do hội họp trên thực tế có thể dẫn đến kết quả là trong một số trường hợp nhân dân có thể đứng lên chống lại việc lạm dụng quyền này. Dù các cơ quan hành pháp có chưa hoàn thiện đến đâu thì giao cho nó việc bảo vệ các công dân khỏi sự lạm dụng này vẫn an toàn hơn và đúng hơn là để mặc cho các cá nhân trấn áp lẫn nhau”. Theo ông thì “chính những người, về mặt lí thuyết, đứng ra bảo vệ việc sự không can thiệp của quan chức chính phủ, trên thực tế lại phàn nàn và trách cứ các bộ trưởng vì chính quyền không can thiệp để bảo vệ quyền tự do và cuộc sống của những cá nhân riêng lẻ”. “Sự thiếu nhất quán như thế”, ông nói thêm, “là do thiếu kiến thức pháp luật mà ra[11]”. Bây giờ thì chúng ta được chứng kiến ngay tại kì họp thứ III của Duma quốc gia mọi người cũng không được hưởng hoàn toàn quyền tự do ngôn luận vì trong khi thảo luận cùng một vấn đề thì đảng cầm quyền và đảng đối lập đã không có quyền tự do ngôn luận như nhau. Điều này còn đáng buồn hơn nữa vì cơ quan đại diện của nhân dân, không phụ thuộc vào thành phần của nó, ít nhất cũng phải thể hiện được lương tâm của toàn dân, tối thiểu là thể hiện được đức hạnh của nó.

V.

Nhận thức pháp quyền của bất cứ dân tộc nào cũng được thể hiện trong khả năng tạo ra các tổ chức và thiết lập các hình thức hoạt động cho các tổ chức đó. Không thể có các tổ chức và hình thức hoạt động của chúng nếu không có các qui phạm pháp luật điều chỉnh chúng, vì vậy việc hình thành các tổ chức nhất thiết phải đi kèm với việc soạn thảo các qui phạm pháp luật như thế. Nhân dân Nga nói chung không phải là không có tài tổ chức, không nghi ngờ gì rằng họ còn cố tạo ra những tổ chức cực kì chặt chẽ nữa, ước muốn sống theo lối công xã, ruộng đất công xã, tập đoàn sản xuất… đã chứng tỏ điều đó. Nhận thức về đúng và sai trong tâm hồn người dân quyết định đời sống và cách xây dựng các tổ chức này. Bản chất nội tại của nhận thức pháp quyền của nhân dân Nga là nguyên nhân của quan niệm sai lầm về thái độ của dân chúng đối với pháp luật. Nó tạo cớ cho trước tiên là những người thân Slav và sau đó là những người dân tuý cho rằng nhân dân Nga xa lạ với các “nguyên tắc pháp lí”; rằng dựa vào nhận thức nội tâm, họ chỉ hành động theo các tiêu chuẩn đạo đức mà thôi. Dĩ nhiên là trong nhận thức của nhân dân Nga, các tiêu chuẩn luật pháp và tiêu chuẩn đạo đức vẫn còn chưa được tách biệt và vẫn còn liên kết chặt chẽ với nhau. Đấy cũng là nguyên nhân của sự khiếm khuyết trong luật thông thường của nhân dân Nga; nó không có sự thống nhất và hơn nữa còn xa lạ với tiêu chuẩn của bất kì luật pháp thông thường nào: một cách áp dụng duy nhất cho mọi hoàn cảnh. 

Nhưng chính vì thế mà giới trí thức phải giúp đỡ nhân dân, thúc đẩy cho sự phân hoá các tiêu chuẩn của luật pháp thông thường cũng như áp dụng luật một cach ổn định và phát triển luật pháp một cách có hệ thống. Chỉ khi đó giới trí thức dân tuý mới có thể thực hiện được nhiệm vụ đặt ra là củng cố và phát triển các nguyên tắc của công xã, đồng thời tạo điều kiện để nâng nó lên thành những hình thức cao hơn, tiến dần lên chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan niệm sai lầm, tức là ý kiến cho rằng nhận thức của nhân dân ta hoàn toàn theo hướng đạo đức là trở lực cho việc thực hiện nhiệm vụ này và dẫn ước mơ của trí thức đến chỗ phá sản. Không thể xây dựng được một hình thức xã hội cụ thể nào nếu dựa trên cơ sở luân lí như thế. Đấy là quan niệm trái tự nhiên, nó sẽ dẫn tới việc tiêu diệt và làm mất uy tín của đạo đức và sẽ làm cùn mòn thêm nhận thức pháp quyền.

Bất kì tổ chức xã hội nào cũng cần các tiêu chuẩn pháp lí, nghĩa là cần những qui định điều chỉnh không phải phẩm hạnh của con người, vốn là nhiệm vụ của luân lí mà là những qui định điều chỉnh hành vi bên ngoài của họ. Mặc dù các tiêu chuẩn pháp lí điều chỉnh hành vi bên ngoài của chúng ta nhưng chúng không sống ở bên ngoài mà sống trước hết trong nhận thức của chúng ta và là thành tố nội tại của tâm hồn con người, giống như các tiêu chuẩn đạo đức vậy. Chỉ khi được thể hiện trong các điều khoản luật pháp hoặc được áp dụng vào đời sống thì chúng mới có đời sống ngoại tại mà thôi. Nhưng khi bỏ qua nhận thức bên trong hay như bây giờ người ta gọi là luật trực giác, giới trí thức của chúng ta đã coi luật pháp chỉ là các tiêu chuẩn bên ngoài, thiếu sức sống, tức là các tiêu chuẩn được đưa một cách dễ dàng vào các điều khoản, các mục của luật pháp hay qui định thành văn nào đó. Điều đặc biệt là bên cạnh ước muốn xây dựng những hình thức xã hội phức tạp chỉ trên cơ sở các nguyên tắc đạo đức thì trong các tổ chức của mình, giới trí thức của chúng ta lại tỏ ra cực kì say mê các qui tắc mang tính hình thức và những qui định rất cụ thể; trong trường hợp này họ đã thể hiện sự tin tưởng quá đáng vào các điều và các khoản của nội qui của tổ chức. Hiện tượng này, chứng tỏ một sự mâu thuẩn rất khó hiểu, có nguyên nhân ở chỗ giới trí thức của chúng ta coi tiêu chuẩn pháp lí không phải là nhận thức mà chỉ là các nguyên tắc được viết ra giấy mà thôi.

Chúng ta bắt gặp ở đây một trong những biểu hiện điển hình nhất của trình độ nhận thức pháp quyền yếu kém. Như mọi người đều biết, xu hướng đưa ra các qui định chi tiết và điều chỉnh toàn bộ đời sống xã hội bằng những điều luật thành văn là bản chất của nhà nước cảnh sát, nó chính là chỉ dấu phân biệt với nhà nước pháp quyền. Có thể nói rằng nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta đang ở trong giai đoạn phát triển tương đương với các hình thức của nhà nước cảnh sát. Tất cả các đặc điểm phổ biến của nhà nước cảnh sát đều được thể hiện trong các xu hướng hướng đến chủ nghĩa hình thức và quan liêu của giới trí thức của chúng ta. Người ta thường đặt chế độ quan liêu đối lập với giới trí thức và về mặt nào đó thì đúng là như thế. Nhưng sẽ xuất hiện một loạt câu hỏi trong sự so sánh như thế: giới quan liêu có xa lạ với giới trí thức đến như thế hay không, giới quan liêu của chúng ta chẳng phải là hậu duệ của giới trí thức hay sao, giới quan liêu không sống bằng nguồn sữa từ giới trí thức hay sao và cuối cùng, liệu giới trí thức có lỗi không khi mà ở nước ta đã hình thành nên một bộ máy quan liêu hùng mạnh đến như thế? Không còn nghi ngờ nữa rằng toàn bộ giới trí thức của chúng ta đã nhiễm thói quan liêu trí thức. Thói quan liêu này được thể hiện trong tất cả các tổ chức của trí thức, đặc biệt là trong các đảng phái chính trị của nó.

Các chính đảng của chúng ta xuất hiện trong giai đoạn trước cách mạng (1905-1907 – ND). Tham gia vào các đảng đó là những người chân thành, với những mơ ước đầy lí tưởng, những người không có thành kiến và đã phải chịu nhiều hi sinh. Tưởng rằng những người này có thể đưa được một phần lí tưởng của mình vào các tổ chức tự do của họ. Nhưng thay vì thế chúng ta lại được chứng kiến sự bắt chước chẳng khác gì nô lệ các lề thói quái gở điển hình của đời sống quốc gia Nga.

Xin lấy ngay đảng dân chủ-xã hội làm thí dụ. Như đã nói, điều lệ Đảng được thông qua tại Đại hội lần thứ II. Điều lệ đối với tổ chức cũng tương đương như hiến pháp đối với nhà nước. Điều lệ quyết định tổ chức của đảng là cộng hoà hay quân chủ, nó quyết định tính chất quí tộc hay dân chủ cho các cơ quan trung ương, và xác định quyền của các đảng viên thường trong quan hệ với toàn đảng. Có thể cho rằng điều lệ đảng của những người tuyệt đối tin tưởng vào chế độ cộng hoà chắc chắn sẽ bảo đảm cho các đảng viên sự đảm bảo tối thiểu đối với quyền tự do ngôn luận và thể chế pháp quyền. Nhưng như đã thấy, đối với các đại diện của giới trí thức của chúng ta, khi cần không phải là tuyên bố các nguyên tắc mà là thực thi các nguyên tắc trong cuộc sống thì quyền tự quyết của cá nhân và thể chế cộng hoà chỉ là chuyện vặt, không đáng để tâm. Trong điều lệ được thông qua tại Đại hội Đảng, chẳng có một cơ quan tự do nào được thành lập hết. Martov[12], lãnh tụ của nhóm thiểu số tại Đại hội đã nói về điều lệ như sau: “cùng với đa số thành viên Ban biên tập Ngọn lửa nhỏ, tôi nghĩ rằng Đại hội sẽ chấm dứt “tình trạng phong toả” trong nội bộ Đảng và thiết lập một trật tự bình thường. Trên thực tế tình trạng phong toả với những điều luật đặc biệt nhằm chống lại một số nhóm vẫn tiếp tục, thậm chí còn gay gắt hơn[13]”. Nhưng điều này không làm cho Lenin, lãnh tụ phe đa số, người đòi phải thông qua điều lệ với “tình trạng phong toả”, lúng túng. Ông ta đã phát biểu như sau “Tôi hoàn toàn không sợ những ngôn từ khủng khiếp như “tình trạng phong toả”, như “những điều luật đặc biệt” nhằm chống lại một vài cá nhân hay một vài nhóm ..v..v… Đối những phần tử bấp bênh và dao động, chúng ta không chỉ có thể mà phải tạo ra “tình trạng phong toả” và toàn bộ điều lệ của chúng ta, chủ nghĩa tập trung được Đại hội thông qua chính là “tình trạng phong toả” đối với các nguồn gốc chính trị mơ hồ. Muốn chống lại sự mơ hồ thì cần phải có các điều luật đặc biệt và bước đi mà Đại hội đưa ra đã xác định đúng phương hướng chính trị, đã tạo cơ sở vững chắc cho những điều luật và biện pháp như thế[14]”. Nhưng nếu cái Đảng gồm toàn những người trí thức theo tư tưởng cộng hoà mà còn không thể không dùng tình trạng phong toả và các điều luật đặc biệt thì dễ hiểu là vì sao cho đến nay nước Nga vẫn còn bị cai trị bởi cảnh sát đặc biệt và tình trạng chiến tranh.

Để thấy được các khái niệm pháp quyền đang ngự trị trong giới trí thức cấp tiến của chúng ta cần phải chi ra rằng điều lệ với “tình trạng phong toả” được thông qua chỉ với hai phiếu quá bán. Như vậy là trái với nguyên tắc pháp lí căn bản, nói rằng điều lệ cũng như hiến pháp phải được thông qua trên cơ sở quá bán tuyệt đối. Lãnh đạo phe đa số của Đại hội đã không thoả hiệp ngay cả khi mọi người đều thấy rằng việc thông qua điều lệ với tình trạng phong toả như thế sẽ dẫn đến việc chia rẽ đảng, một tình trạng buộc người ta phải thoả hiệp. Kết quả đã dẫn đến sự chia rẽ giữa những người “bolshevik” và những người “melshevik”. Nhưng thú vị nhất là cái điều lệ vốn là nguyên nhân của sự chia rẽ cũng hoàn toàn không thể áp dụng được trên thực tế. Vì vậy, chưa đến hai năm sau, tức là vào năm 1905, tại Đại hội III, gồm toàn những người “bolshevik” (những người “melshevik” từ chối tham gia để phản đối cách bầu đại biểu dự Đại hội), điều lệ thông qua năm 1903 bị huỷ bỏ, một điều lệ khác, có thể chấp nhận được với cả những người “melshevik”, đã được thông qua. Nhưng điều này đã không dẫn đến sự thống nhất của Đảng. Xuất phát điểm chỉ là vấn đề tổ chức, “melshevik” và “bolshevik” đã đẩy sự thù địch đến mức cao nhất, tức là sang tất cả các vấn đề sách lược. Ở đây các qui luật tâm lí-xã hội đã bắt đầu có hiệu lực, và kết quả sẽ là một khi mâu thuẫn và sự thù nghịch giữa con người với nhau đã xuất hiện thì vì bản chất nội tại của chúng mà chúng sẽ mở rộng và tự khoét sâu thêm mãi ra. Nói cho ngay, những người có nhận thức cao về pháp quyền sẽ đè nén được các tình cảm đó và không cho chúng mở rộng được ảnh hưởng. Nhưng chỉ có những người nhận thức một cách rõ ràng rằng mọi tổ chức và nói chung mọi sinh hoạt xã hội chỉ có thể diễn ra trên cơ sở thoả hiệp mới làm được như thế mà thôi. Giới trí thức của chúng ta dĩ nhiên là không có khả năng đó vì trình độ nhận thức pháp quyền của họ chưa đủ để có thể công khai thừa nhận nhu cầu của thoả hiệp, những người có tính nguyên tắc ở nước ta rất khó thoả hiệp, nếu có thì cũng hoàn toàn dựa trên quan hệ cá nhân.

Niềm tin vào sức mạnh toàn năng của điều lệ và các biện pháp cưỡng ép không phải là tính chất của riêng những người dân chủ-xã hội Nga. Đấy là căn bệnh của toàn thể giới trí thức của chúng ta. Tất cả các chính đảng của chúng ta đều thiếu nhận thức pháp quyền sống động và có hiệu lực thực sự. Chúng tôi có thể dẫn thêm những thí dụ tương tự từ một đảng xã hội chủ nghĩa nữa, tức là Đảng của những người xã hội cách mạng hay các tổ chức tự do khác, như Liên minh giải phóng, nhưng đáng tiếc không thể làm được vì có quá nhiều sự kiện. Chỉ xin lưu ý một tính chất đặc thù nhất của các chính đảng của chúng ta. Đấy là, không thấy ở đâu người ta nói nhiều về kỉ luật đảng như ở nước ta, trong tất cả các đảng, tại tất cả các đại hội đều có những buổi thảo luận không dứt về các yêu cầu tuân thủ kỉ luật. Dĩ nhiên là nhiều người nói rằng các tổ chức công khai là công việc mới mẻ và quả là có một phần sự thật trong những lời biện hộ như thế. Nhưng đấy không phải là toàn bộ và không phải là điểm chính. Nguyên nhân chủ yếu nhất là giới trí thức của chúng ta còn xa lạ với các quan điểm pháp quyền, tức là các quan điểm tạo ra kỉ luật ngay từ bên trong. Chúng ta cần các biện pháp kỉ luật bên ngoài vì chúng ta không có kỉ luật từ bên trong. Ở đây chúng ta cũng quan niệm pháp luật không phải là nhận thức mà là các biện pháp cưỡng bức. Và một lần nữa điều đó chứng tỏ trình độ nhận thức pháp quyền của chúng ta còn thấp.

VI.

Trong khi nhận xét về nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga, chúng ta đã xem xét thái độ của nó trên hai bình diện: quyền cá nhân và thái độ đối với trật tự luật pháp khách quan. Chúng ta đã thử xác định nhận thức pháp quyền thể hiện trong việc giải quyết các vấn đề tổ chức, nghĩa là các vấn đề căn bản của quyền hiến định theo nghĩa rộng nhất của từ này. Dựa vào thí dụ là các tổ chức của trí thức chúng ta đã cố gắng tìm hiểu xem liệu trí thức của chúng ta có khả năng tham gia vào việc tái tổ chức nhà nước về mặt pháp luật, nghĩa là chuyển quyền lực nhà nước từ quyền lực của sức mạnh sang quyền lực của luật pháp hay không. Nhưng nhận xét của chúng ta sẽ không đầy đú nếu bỏ qua thái độ của giới trí thức Nga đối với toà án. Toà án là cơ quan trong đó pháp luật được viện dẫn và được thiết lập. Mọi dân tộc, trước khi các tiêu chuẩn pháp luật được xác định bằng con đường lập pháp thì các tiêu chuẩn này đã được tìm kiếm và thiết lập thông qua các quyết định của toà án. Các bên, trong khi đưa những vấn đề tranh chấp lên cho toà án giải quyết nhằm bảo vê quyền lợi của mình; mỗi bên đều dựa vào tiêu chuẩn pháp lí khách quan để chứng minh là “mình đúng”. Trong phán quyết của mình, quan toà, dựa trên nhận thức pháp lí chung, đưa ra quyết định có uy tín về tiêu chuẩn pháp lí. Quan toà chỉ có thể giữ vững được ngọn cờ pháp luật và đưa được điều luật mới vào cuộc sống khi ông ta được nhận thức pháp lí sống động và tích cực của nhân dân trợ giúp mà thôi. Sau này, hoạt động lập pháp của toà án và quan toà đã bị hoạt động lập pháp của nhà nước lấn át. Các chế độ lập hiến đã tạo ra cơ quan lập pháp dưới hình thức cơ quan đại diện của nhân dân, tức là cơ quan có trách nhiệm thể hiện một cách trực tiếp nhận thức pháp quyền của dân chúng. Nhưng ngay cả hoạt động lập pháp của cơ quan đại diện cũng không thể loại bỏ được giá trị của toà án trong việc giữ vững tinh thần thượng tôn pháp luật trong quốc gia. Trong nhà nước hiến định hiện đại, toà án chính là người bảo vệ pháp luật hiện hành; nhưng trong khi áp dụng luật pháp, toà án còn tiếp tục là thực thể sáng tạo ra luật mới nữa. Trong mấy chục năm gần đây, chính các nhà luật học đã lưu ý đến sự kiện là toà án vẫn giữ vai trò đó mặc dù hệ thống lập pháp hiện hành đã làm cho vai trò của toàn án thành có ý nghĩa cao hơn. Quan điểm mới về toà án như thế đã bắt đầu thâm nhập vào những bộ luật mới nhất. Luật dân sự của Thuỵ Sĩ được cả hai Viện thống nhất ban hành ngày 10 tháng 12 năm 1907 đã thể hiện quan điểm đó bằng các thuật ngữ hiện đại; điều thứ nhất của bộ luật này nói rằng trong những trường hợp khi tiêu chuẩn pháp luật còn chưa có thì quan toà phán xét trên cơ sở qui định mà ông tự đặt ra “nếu ông là một nhà lập pháp”. Như thế nghĩa là ở các nước dân chủ và tiến bộ, quan toà cũng được công nhân là người thể hiện nhận thức pháp quyền của nhân dân giống như đại biểu của cơ quan luập pháp vậy; đôi khi quan toà còn có nhiều quyền hơn vì ông ta có thể tự mình quyết định, mặc dù không phải là quyết định chung cuộc vì nhờ hệ thống đa cấp mà vụ việc có thể được đưa lên toà án cấp trên. Tất cả điều đó chứng tỏ rằng nhân dân với nhận thức pháp quyền cao cần phải quan tâm đến và kính trọng toà án vì đấy là cơ quan bảo vệ và thể hiện trật tự pháp luật của mình.

Giới trí thức của chúng ta có thái độ với toà án như thế nào? Xin ghi nhận rằng việc tổ chức toà án của chúng ta được thực hiện theo Qui chế Toà án do Aleksander II ban hành ngày 20 tháng 11 năm 1864 theo các nguyên tắc hoàn toàn phù hợp với các yêu cầu đối với toà án trong một nhà nước pháp quyền. Toà án với cách tổ chức như thế có thể dùng để phổ biến trật tự pháp luật chân chính. Những người hoạt động trong lĩnh vực cải cách toà án đã mong ước dùng những toà án kiểu mới để chuẩn bị đưa nước Nga vào thể chế pháp quyền. Những toà án được cải cách với thành phần nhân sự của mình đã gây được những niềm hi vọng tươi sáng nhất. Ban đầu xã hội đã tỏ ra có thiện cảm và yêu mến các toà án kiểu mới. Nhưng nay, sau bốn mươi năm chúng ta phải công nhận rằng đấy chỉ là áo tưởng và chúng ta vẫn chưa có các toà án tốt. Nói cho ngay, người ta đã chỉ ra rằng ngay sau khi được đưa vào áp dụng và cho đến nay Qui chế đã bị sửa đổi mấy lần. Đúng là như thế, việc sửa chữa chủ yếu được thực hiện theo hai hướng: thứ nhất, một loạt vụ án, thường là các vụ án chính trị phải theo các hình thức điều tra và toà án đặc biệt; thứ hai, sự độc lập của các quan toà ngày càng giảm và toà án càng ngày càng rơi vào tình trạng lệ thuộc hơn. Chính phủ làm việc đó để theo đuổi các mục tiêu chính trị. Và điều đặc biệt là nó đã thôi miên công luận và làm cho công luận chỉ còn chú trọng đến vai trò chính trị của toà án nữa mà thôi. Ngay cả toà hội thẩm cũng chỉ có hai quan điểm: chính trị hay là nhân đạo chung chung; trong trường hợp tốt nhất thì trong các phiên toà hội thẩm ta có thể gặp toà án lương tâm theo nghĩa nhân đạo tiêu cực chứ không phải là nhận thức pháp quyền tích cực. Dĩ nhiên là trong những điều kiện xã hội của chúng ta quan điểm chính trị đối với toà hình sự là không thể tránh được. Cuộc đấu tranh bảo vệ pháp luật nhất định biến thành cuộc đấu tranh cho một lí tưởng chính trị nào đó.

Nhưng thái độ bàng quan của xã hội đối với toà dân sự làm người ta phải ngạc nhiên. Các tầng lớp xã hội rộng lớn không hề quan tâm tới tổ chức và hoạt động của nó. Báo chí của chúng ta không hề nghiên cứu ý nghĩa của nó đối với sự phát triển pháp luật của chúng ta, báo chí không đưa những tin tức quan trọng, đấy là nói về khía cạnh pháp luật, mà nếu có nói thì đấy chỉ là các vụ có tính giật gân mà thôi. Trong khi đó, nếu giới trí thức kiểm soát và điều chỉnh toà dân sự, tức là loại toà án tương đối độc lập, thì nó có thể có ảnh hưởng rất lớn trong việc củng cố và phát triển trật tự pháp lí của chúng ta. Khi nói về sự bấp bênh của trật tự pháp lí trong lĩnh vực dân sự thì người ta thường nhắm vào sự khiếm khuyết của luật pháp trong lĩnh vực vật chất. Quả thật là bộ luật của chúng ta quá cổ lỗ, hoàn toàn không có luật thương mại, một số lĩnh vực dân sự khác cũng hầu như không được điều chính bằng các tiêu chuẩn pháp luật thành văn. Nhưng như thế thì toà dân sự càng phải có vai trò quan trọng hơn. Các dân tộc có nhận thức pháp quyền phát triển như người La Mã hay người Anh trong những điều kiện tương tự đã có một hệ thống pháp luật bất thành văn rất phát triển, còn ở nước ta trật tự pháp luật vẫn ở trong tình trạng bấp bênh như cũ. Dĩ nhiên là chúng ta cũng có luật pháp hình thành trên các quyết định của toà án, không có nó thì chúng ta không thể tồn tại được và điều đó bắt nguồn từ sự kiện là toà án của chúng ta đã hoạt động thường xuyên. Nhưng không có nước nào mà hoạt động của toà phúc thẩm tối cao lại bấp bênh và mâu thuẫn như ở ta; không có toà phúc thẩm nào lại thường xuyên huỷ bỏ quyết định của mình như là thượng viện của chúng ta. Không nghi ngờ gì rằng xã hội ta, một xã hội bàng quan với sự ổn định và tính đúng đắn của trật tự luật pháp trong lĩnh vực dân sự, chịu phần lớn trách nhiệm trong sự bấp bênh của toà phúc thẩm tồi cao. Ngay cả các nhà luật học của chúng ta cũng ít quan tâm đến vấn đề này và vì vậy mà vẫn chưa có qui định về phương thức hoạt động của toà phúc thẩm. Chúng ta không có cả cơ quan ngôn luận chuyên trách về vấn đề này, tờ tuần báo duy nhất là tờ Pháp luật, chuyên về việc bảo vệ và soạn thảo luật hình thức, thì mới tồn tại được đúng mười năm.

Sự bàng quan của xã hội đối với trật tự pháp luật trong lĩnh vực dân sự càng làm người ta kinh ngạc hơn vì nó liên quan đến những quyền lợi sống còn và sát sườn của xã hội. Đây là những vấn đế thường nhật, việc điều chỉnh đời sống vật chất, gia đình và xã hội của chúng ta phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn đề như thế.

Nhận thức pháp quyền của xã hội ta như thế nào thì toà án của ta như thế ấy. Chỉ có thể tìm được một vài người từ những toà án thời kì đầu cải cách là tạo ảnh hưởng tích cực đối với nhận thức pháp quyền của xã hội mà thôi, còn trong hai chục năm gần đây không có bất cứ một quan toà nào nổi tiếng và cũng chẳng có người nào chiếm được cảm tình của xã hội, còn về các hội đồng thẩm phán thì càng chẳng có gì để nói. “Quan toà” không phải là danh hiệu đầy vinh dự, chứng tỏ đức tính chí công vô tư, hào hiệp, chỉ phụng sự pháp luật như ở các nước khác. Ở nước ta không có toà hình sự vô tư, không thiên vị; hơn thế nữa, toà hình sự của chúng ta đã trở thành một loại phương tiện báo thù. Ở đây, dĩ nhiên là các lí do chính trị đóng vai trò quyết định. Nhưng toà dân sự cũng còn lâu mới đáp ứng được nhiệm vụ của mình. Sự dốt nát, thái độ tắc trách của một số quan toà làm người ta kinh ngạc, đa số chẳng hề quan tâm, chẳng hề suy nghĩ và không nhận thức được tầm quan trọng và trách nhiệm của mình đối với cái công việc đòi hỏi phải suy nghĩ không ngừng nghỉ như thế. Những người có hiểu biết về toà án của chúng ta khẳng định rằng những vụ hơi khó khăn và phức tạp đều không được giải quyết trên cơ sở của luật pháp mà là do một sự ngẫu nhiên nào đó. Trong trường hợp tốt nhất thì một quan toà thông minh và được uỷ thác, trong khi xét xử một vụ nào đó, cũng chỉ đưa ra những bằng chứng có lợi cho người uỷ thác mà thôi. Nhưng thường thì ngay cả sự giả vờ đó cũng không phải là điều quyết định mà quyết định đối với vụ án lại là những tính toán ở bên ngoài. Dân chúng Nga thường không biết ý nghĩa của toà án và không tôn trọng nó; điều này thể hiện rất rõ trong hai thành phần tham gia phiên toà là người làm chứng và giám định viên. Chúng ta buộc phải công nhận rằng nhiều người làm chứng và giám định viên hoàn toàn không nhận thức được nhiệm vụ của mình: giúp tìm ra sự thật. Thái độ khinh xuất đối với nhiệm vụ này thể hiện rõ trong các thuật ngữ không thể tưởng tượng nổi, nhưng vẫn rất thịnh hành, thì dụ như “người đáng tin” hay “kẻ làm chứng dối trung thực”. Từ lâu đã không còn “toà án nhanh” để xử các vụ án dân sự nữa, các toà án của chúng ta có nhiều việc đến nỗi các vụ việc phải đi qua tất cả các cấp, kéo dài đến năm năm. Người ta có thể bảo rằng toà án có quá nhiều việc và đấy là nguyên nhân chính của thái độ tắc trách và rập khuôn của quan toà đối với công việc. Nhưng nếu quan toà được đào tạo tốt và có hiểu biết, những người làm trong ngành và xã hội quan tâm đến toà án hơn nữa thì công việc chắc chắn là sẽ diễn ra trôi chảy hơn, các vụ án sẽ được giải quyết nhanh hơn, dễ hơn và tốt hơn. Cuối cùng, trong những điều kiện như thế, trật tự luật pháp sẽ giành được ý nghĩa quyết định và số lượng các quan toà của chúng ta cũng không thể ở mãi trong tình trạng không thể chấp nhận được như hiện nay.

Cuộc cải cách toà án năm 1864 đã tạo ra những người tự do phụng sự luật pháp, đấy là tầng lớp luật sư. Nhưng cũng phải công nhận rằng dù đã tồn tại hơn bốn mươi năm tầng lớp luật sư cũng mới đóng góp được quá ít cho sự phát triển của nhận thức pháp quyền. Chúng ta đã có những trạng sự biện hộ nổi tiếng trong lĩnh vực chính trị và hình sự; nhưng nói cho ngay, ở đây ta thường gặp những người cổ suý tích cực cho thái độ nhân đạo với phạm nhân, nhưng còn đa số đều là những người đấu tranh cho một lí tưởng chính trị nào đó, hay có thể nói cho “luật pháp mới” chứ không phải là “theo luật” theo đúng nghĩa của từ này. Quá say sưa đấu tranh cho việc hình thành luật mới, họ thường quên mất luật pháp hình thức và pháp luật nói chung. Cuối cùng, đôi khi họ còn làm hại cả “luật pháp mới” bởi vì họ được dẫn đạo bởi các tính toán chính trị chứ không phải luật pháp. Nhưng giới luật sư còn đóng góp ít hơn cho sự phát triển trật tự luật pháp dân sự nữa. Ở đây cuộc đấu tranh vì pháp luật thường dễ bị các tính toán khác gạt sang một bên và các luật sư nổi tiếng của chúng ta thường biến thành những kẻ “làm ăn” bình thường nữa. Đây là bằng chứng chứng tỏ rằng toà án của chúng ta cũng như nhận thức pháp quyền của chúng ta không những không ủng hộ cuộc đấu tranh vì luật pháp mà còn có ảnh hưởng theo hướng ngược lại nữa.

Toà án không thể có vị trí xứng đáng nếu xã hội không nhận thức được một cách rõ ràng những nhiệm vụ của nó. Có rất nhiều bằng chứng chứng tỏ rằng giới trí thức của chúng ta chưa có nhận thức như thế. Chỉ cần dẫn ra ở đây các quan điểm được những người đại diện cho nhận thức pháp quyền của nhân dân phát biểu tại Duma quốc gia thì rõ. Thí dụ, ông Aleksinski, đại biểu Duma quốc gia khoá II, thuộc phe cực tả doạ sẽ đưa kẻ thù của nhân dân ra toà và rằng “đấy sẽ là phiên toà khủng khiếp hơn tất cả mọi phiên toà”. Sau vài buổi họp, ông Shulgin, đại diện cho phe cực hữu lại biện hộ cho các toà án quân sự tại trận rằng như thế còn tốt hơn là để “cho nhân dân tự xử” và khẳng định rằng việc bãi bỏ các toà án quân sự sẽ dẫn tới “những vụ tự xử khủng khiếp nhất”, những người vô tội sẽ phải gánh chịu hậu quả. Tuy nhiên việc sử dụng sai từ “toà án” như thế chứng tỏ rằng quan niệm của các đại biểu của chúng ta về toà án thể hiện thế giới quan của thời kì khi mà toà còn “bắt lưu đầy và tịch thu tài sản”.

Không nên chỉ đổ lỗi cho hoàn cảnh chính trị, chính chúng ta cũng có lỗi trong việc có những toà án kém như thế. Trong những điều kiện chính trị tương tự, toà án ở các nước khác dù sao cũng vẫn bảo vệ được pháp luật. Câu ngạn ngữ “Quan toà ở Berlin” thịnh hành vào cuối thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX khi mà Phổ vẫn còn là nhà nước quân chủ chuyên chế chứng tỏ điều đó.

Tất cả câu chuyện về trình độ nhận thức pháp quyền thấp của giới trí thức của chúng ta không phải là để kết tội hay lên án. Sự thất bại của cuộc cách mạng Nga và sự kiện trong những năm gần đây đã là bản án đanh thép đối với giới trí thức rồi. Bây giờ trí thức phải đi vào thế giới nội tâm, thâm nhập vào nó để làm tươi mới và bồi bổ thêm cho nó. Trong quá trình lao động như thế, cuối cùng nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta nhất định sẽ được đánh thức. Những dòng này được chắp bút với niềm tin và mong ước cháy bỏng rằng một ngày không xa nhận thức pháp quyền của giới trí thức của chúng ta sẽ trở thành lực lượng xây dựng và sáng tạo nên một đời sống xã hội mới. Trải qua một loạt thử thách đầy cay đắng, giới trí thức của chúng ta phải đi đến nhận thức rằng bên cạnh các giá trị tuyệt đối như tự tu dưỡng cá nhân và đức hạnh thì còn có các giá trị tương đối, giá trị bình thường nhưng bền vững và không gì phá huỷ được như trật tự pháp luật nữa.

Ghi chú cho lần xuất bản thứ hai. Nhiều người cho rằng thật là bất công khi lên án sự yếu kém trong nhận thức pháp quyền của giới trí thức vì nó không có lỗi mà đấy là những điều kiện ngoại tại, tức là sự vô luật pháp đang ngự trị trong đời sống của chúng ta. Không thể phủ nhận được ảnh hưởng của những điều kiện đó và nó đã được phản ánh trong bài báo của tôi. Nhưng không được đổ tất cho hoàn cảnh, không được bình thản mà công nhận rằng “nhà nước của chúng ta trong một thời gian dài, phải nói là mấy thế hệ, đã không giáo dục mà lại còn làm cho chúng ta đổ đốn thêm”, rằng “mấy thế hệ người Nga được dạy dỗ coi thường luật pháp, cho rằng luật pháp chẳng những bất lực mà còn không cần thiết nữa” (xem V. Maklakov[15] Luật pháp trong cuộc sống người Nga, Tin tức châu Âu, tháng 5, năm 1909, trang 273-274). Nếu chúng ta nhận thức được tai hoạ thì chúng ta không thể ngồi yên, lương tâm của chúng ta không thể bình thản và chúng ta phải đấu tranh với cái nguyên nhân đang hủ hoá con người của ta ở chính trong ta. Thật không xứng đáng là một người có tư duy khi phát biểu: chúng ta đã bị hủ hoá rồi và nếu người ta không gỡ bỏ cái nguyên nhân làm băng hoại kia đi thì chúng ta sẽ còn tiếp tục hủ hoá như thế nữa, mọi người đều phải nói: tôi không được sa đoạ như thế nữa vì tôi đã nhận thức được rằng người ta đang làm tôi sa đoạ và tôi biết nguyên nhân của sự sa đạo đó rồi. Chúng ta cần phải mang hết nghị lực của tư duy, ý chí và tình cảm để giải phóng nhận thức của mình khỏi những ảnh hưởng tiêu cực do hoàn cảnh không thuận lợi gây ra. Đấy là lí do vì sao niệm vụ của giai đoạn này là đánh thức nhận thức pháp quyền của giới trí thức Nga và đưa nó vào hành động, đưa nó vào đời sống.

B. A. Kistiakovski
Phạm Nguyên Trường dịch

Nguồn: Những cột mốc (Vekhi) – 1909.
Đã đăng trong tập tiểu luận Về trí thức Nga, Nhà xuất bản trí thức, Trang 73-111, Hà Nội, 2009.
Bản điện tử: http://www.vanchuongviet.org/

B. A. Kistiakovski (1869-1920) là nhà triết gia, luật học và xã hội học nổi tiếng, đảng viên Đảng dân chủ lập hiến. Kiến thức về pháp luật Nga của ông sâu sắc đến mức Max Weber đã chọn ông làm cố vấn khi viết về các đảng phái chính trị ở Nga. Bài Trí thức và nhận thức pháp quyền được đăng trong Những cột mốc, xuất bản lần đầu năm 1909.

[1] Adolphe Merkle 1827-1885), luật gia nổi tiếng người Đức.

[2] Struve P. B. (1870-1944), nhà kinh tế học có tài, thời trẻ từng là lãnh tụ của những người mác-xít. Sau cách mạng Tháng mười sống lưu vong ở nước ngoài

[3] Starover, tên thật là A. H. Potresov (1869-1943), thuộc phái “Melshevik”.

[4] Xem: Potresov A. N. Tiểu luận về giới trí thức Nga, 1908, trang 253 và các trang tiếp theo.

[5] Plekhanov G. V. (1856-1918), nhà triết học và nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào dân chủ-xã hội quốc tế người Nga.

[6] Lợi ích của nhân dân là trên hết – La Tinh trong nguyên văn.

[7] Lợi ích của cách mạng là trên hết – La Tinh trong nguyên văn.

[8] Quốc hội vô hình - tiếng Pháp trong nguyên văn .

[9] Xem: Toàn tập biên Đại hội II Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga, Geneva, 1903, trang 169-170.

[10] Bund là tên viết tắt của Liên đoàn công nhân Do Thái Nga và Ba Lan, được thành lập năm 1897, năm 1998 tham gia vào Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga.

[11] Novgorodtsev P. Hoạt động lập pháp của Duma quốc gia. Tập hợp các bài báo. Duma quốc gia I, 1907, tập II, trang 22.

[12] Martov Iu. O. (1873-1923), nhà hoạt động nổi tiếng của phong trào cách mạng Nga, đảng viên Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga từ năm 1900, từ năm 1903 là lãnh tụ phe “Melshevik”, thành viên ban biên tập tờ Ngọn lửa nhỏ, lưu vong từ năm 1920.

[13] Toàn tập biên Đại hội II Đảng công nhân xã hội dân chủ Nga, Geneva, 1903, trang 331.

[14] Tài liệt vừa dẫn, trang 333.

[15] Maklakov V (1869-1957), nhà hoạt động chính trị người Nga.
CÁC BÀI VIẾT CÙNG CHỦ ĐỀ



TRAO ĐỔI CÙNG BẠN VỀ BÀI VIẾT
Comments
0 Comments

Không có nhận xét nào:

Lời thưa... Đóng lại Cảm ơn bạn đã đọc bài viết:
- Có ý kiến gì xin cùng nhau trao đổi.
- Viết bằng tiếng Việt có dấu để dễ đọc hơn.
- Nếu không đăng nhập blog, vui lòng ghi tên thật để tiện trao đổi.
Xin chào và chúc sức khỏe!

Google Suy nghiệm Triết học

Bài đăng mới nhất